Công nghiệp dầu mỏ Mỹ liệu có mất đà?

10:34 | 22/12/2020

170 lượt xem
|
Một trong những mục tiêu chính của chính quyền Donald Trump là đưa Mỹ trở thành quốc gia độc lập về năng lượng. Nếu không có dịch Covid-19, Tổng thống Mỹ có thể đạt được mục tiêu này nhờ dầu đá phiến. Năm 2020 là một năm đầy khó khăn đối với ngành công nghiệp dầu mỏ Mỹ.

Sản lượng giảm liên tiếp

Ngày 3-12-2020, 23 nước OPEC+ cuối cùng đã quyết định tăng nhẹ sản lượng từ ngày 1-1-2021, sau khi giá dầu trong tháng 11-2020 tăng gần 25%. Trong khi dầu Brent từ Biển Bắc và WTI dao động trong khoảng 46-49 USD/thùng vào ngày 4-12, các nước sản xuất đã đồng ý tăng 500.000 thùng mỗi ngày, so với 2 triệu thùng như dự kiến ban đầu. Tính đến thời điểm hiện tại, dường như dầu mỏ đã lấy lại được sức sống của mình sau khi giảm xuống khoảng 18 USD/thùng vào hồi tháng 4-2020.

Công nghiệp dầu mỏ Mỹ liệu có mất đà?
Ông Joe Biden đắc cử tổng thống Hoa Kỳ, năng lượng tái tạo sẽ được ưu tiên phát triển

Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu mỏ vẫn bảo lưu mức cắt giảm 7,2 triệu thùng do làn sóng thứ hai của đại dịch Covid-19. “Đây là sự thận trọng cần thiết vì lợi ích của họ. Bởi vì sự cân bằng của cung cầu hiện vẫn còn mong manh, đặc biệt là ở Mỹ, nơi dầu đá phiến chịu ảnh hưởng đặc biệt trong năm 2020 do khả năng sinh lời thấp” - Francis Perrin, chuyên gia về địa chính trị tại Viện Quan hệ quốc tế và chiến lược (IRIS), nhận định.

Mặc dù là mũi nhọn trong chiến lược độc lập về năng lượng của chính quyền Donald Trump, nhiều lần được Nhà Trắng công khai bảo vệ, ngành công nghiệp dầu mỏ của Mỹ vẫn gặp khó khăn vì đại dịch Covid-19.

Là nhà sản xuất “vàng đen” lớn nhất thế giới kể từ năm 2017, Mỹ chiếm 20% sản lượng dầu mỏ thế giới, theo chuyên trang The Stock Market Guide, trích dẫn dữ liệu từ Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ. Francis Perrin giải thích rằng, nhờ vào loại dầu phi truyền thống, thường được gọi là dầu đá phiến, mà Mỹ đã có thể truất ngôi Arập Xêút và Nga. Nhưng cuộc đổi ngôi này giờ có thể quay sang chống lại Washington. Ngành công nghiệp dầu mỏ của Mỹ đã bị ảnh hưởng nặng nề do giá dầu sụt giảm trong năm 2020, đặc biệt là trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 4. Sản lượng dầu của Mỹ đã giảm trong nhiều tháng.

Mỹ là quốc gia duy nhất trên thế giới mà ở đó chính phủ không có thẩm quyền hạn chế sản lượng dầu vì luật chống độc quyền, hạn chế bất kỳ khả năng thỏa thuận giá cả. Nghịch lý thay, Francis Perrin nhận thấy rằng, chính các công ty dầu mỏ của Mỹ đã giảm sản lượng dầu mỏ trong năm 2020 xuống 2 hoặc 3 triệu thùng/ngày so với năm 2019. Giá dầu đã giảm xuống mức thấp đến mức trong một số trường hợp, một phần hoạt động sản xuất dầu mỏ của Mỹ không còn có lãi. Do đó, Mỹ đã giảm hoạt động khoan dầu và đóng một số giếng, làm giảm sản lượng dầu mỏ.

Công nghiệp dầu mỏ Mỹ liệu có mất đà?
Ngành dầu khí đá phiến của Mỹ đang mất đà

Chuyên gia Francis Perrin chỉ ra vấn đề cố hữu đối với dầu đá phiến của Mỹ, đó là ngưỡng sinh lời cao hơn so với các loại dầu thông thường. Nếu không thể đánh giá chính xác chi phí sản xuất, chi phí này khác nhau giữa các bang hoặc thậm chí giữa các giếng khác nhau, ước tính chi phí sản xuất dầu đá phiến ở Mỹ vào khoảng trên dưới 40 USD/thùng. Trong năm 2020, giá dầu đã có mức giá dưới 40 USD/thùng trong vài tháng. Điều này rất khó để ngành công nghiệp dầu mỏ của Mỹ hoạt động tốt. Chỉ khi dầu WTI tăng lên tới 50 USD/thùng, nghĩa là ở mức hiện tại, ngành công nghiệp dầu mỏ Mỹ mới “giữ được đầu trên mặt nước”.

Trở lực cho dầu khí Mỹ

Công cuộc tìm kiếm độc lập về năng lượng của Mỹ có thể sẽ bị trì hoãn 1 hoặc 2 năm do đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, tương lai sắp tới lại không phải là thời kỳ thuận lợi cho ngành công nghiệp dầu mỏ Mỹ, nếu ông Joe Biden đắc cử Tổng thống Mỹ.

Trong cuộc tranh luận với ứng cử viên Bernie Sanders vào ngày 15-3-2020, ứng cử viên của Đảng Dân chủ đã tuyên bố: “No more, no new fracking”, ý nói rằng, không cho khai thác dầu khí nhiều hơn và sẽ không cấp phép mới cho phương pháp bẻ gãy thủy lực, dùng để khai thác dầu khí đá phiến. Theo ông Joe Biden, việc khai thác dầu khí đá phiến gây phát thải khí mêtan đáng kể. Khí thải này được coi là có hại hơn nhiều so với CO2 về mặt gây hiệu ứng nhà kính.

Dầu đá phiến, thứ đã giúp Mỹ trở thành một cường quốc dầu mỏ, liệu có bị Đảng Dân chủ ngăn cản đà phát triển? Chuyên gia Francis Perrin không chắc chắn vì sự mơ hồ trong lời nói của ông Joe Biden.

Về các vấn đề năng lượng, ông Joe Biden có một cương lĩnh khá mơ hồ: “Chúng ta phải đấu tranh chống lại biến đổi khí hậu” bằng cách đạt được mức trung hòa carbon vào năm 2050. Mục tiêu này sẽ ảnh hưởng đến ngành nhiên liệu hóa thạch, khí đốt, dầu mỏ và đặc biệt là than đá, nhưng giúp các loại năng lượng tái tạo phát triển. Nhưng liệu Joe Biden có đủ thời gian và sức mạnh để thực hiện những cải cách này không?

“Hiện nay 78 tuổi, 4 năm nữa ông sẽ 82 tuổi. Ông ấy sẽ là tổng thống trong một nhiệm kỳ. 4 năm là rất ngắn. Ông ấy sẽ không thể cam kết dứt khoát đưa Mỹ đi theo con đường chống biến đổi khí hậu, điều cần thực hiện trong 30 năm” - Francis Perrin nhận định.

Chuyên gia Francis Perrin: Ước tính chi phí sản xuất dầu đá phiến ở Mỹ vào khoảng trên dưới 40 USD/thùng. Trong năm 2020, giá dầu đã có mức giá dưới 40 USD/thùng trong vài tháng. Điều này rất khó để ngành công nghiệp dầu mỏ của Mỹ hoạt động tốt. Chỉ khi dầu WTI tăng lên tới 50 USD/thùng, ngành công nghiệp dầu mỏ Mỹ mới “giữ được đầu trên mặt nước”.

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 121,700 123,300
AVPL/SJC HCM 121,700 123,300
AVPL/SJC ĐN 121,700 123,300
Nguyên liệu 9999 - HN 10,950 11,050
Nguyên liệu 999 - HN 10,940 11,040
Cập nhật: 05/08/2025 03:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117,000 119,500
Hà Nội - PNJ 117,000 119,500
Đà Nẵng - PNJ 117,000 119,500
Miền Tây - PNJ 117,000 119,500
Tây Nguyên - PNJ 117,000 119,500
Đông Nam Bộ - PNJ 117,000 119,500
Cập nhật: 05/08/2025 03:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,420 11,870
Trang sức 99.9 11,410 11,860
NL 99.99 10,840
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,630 11,930
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,630 11,930
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,630 11,930
Miếng SJC Thái Bình 12,170 12,330
Miếng SJC Nghệ An 12,170 12,330
Miếng SJC Hà Nội 12,170 12,330
Cập nhật: 05/08/2025 03:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,217 1,233
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,217 12,332
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,217 12,333
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,163 1,188
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,163 1,189
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,163 1,182
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 11,253 11,703
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 81,909 88,809
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 73,634 80,534
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 65,359 72,259
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 62,167 69,067
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 42,544 49,444
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,217 1,233
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,217 1,233
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,217 1,233
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,217 1,233
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,217 1,233
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,217 1,233
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,217 1,233
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,217 1,233
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,217 1,233
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,217 1,233
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,217 1,233
Cập nhật: 05/08/2025 03:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16445 16713 17295
CAD 18470 18747 19365
CHF 31721 32102 32763
CNY 0 3570 3690
EUR 29662 29934 30964
GBP 34000 34390 35335
HKD 0 3205 3408
JPY 170 174 180
KRW 0 17 19
NZD 0 15178 15769
SGD 19797 20079 20607
THB 722 785 838
USD (1,2) 25923 0 0
USD (5,10,20) 25963 0 0
USD (50,100) 25992 26026 26368
Cập nhật: 05/08/2025 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,001 26,001 26,361
USD(1-2-5) 24,961 - -
USD(10-20) 24,961 - -
GBP 34,333 34,426 35,296
HKD 3,276 3,286 3,385
CHF 32,132 32,232 33,025
JPY 173.94 174.26 181.64
THB 769.07 778.57 832.93
AUD 16,680 16,741 17,215
CAD 18,686 18,746 19,289
SGD 19,947 20,009 20,679
SEK - 2,664 2,756
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,992 4,130
NOK - 2,511 2,598
CNY - 3,595 3,693
RUB - - -
NZD 15,149 15,290 15,735
KRW 17.46 18.21 19.65
EUR 29,869 29,893 31,099
TWD 790.83 - 957.35
MYR 5,775.39 - 6,517.53
SAR - 6,862.39 7,222.55
KWD - 83,397 88,694
XAU - - -
Cập nhật: 05/08/2025 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,000 26,010 26,350
EUR 29,721 29,840 30,963
GBP 34,158 34,295 35,279
HKD 3,270 3,283 3,388
CHF 31,936 32,064 32,970
JPY 173.34 174.04 181.42
AUD 16,630 16,697 17,237
SGD 19,988 20,068 20,613
THB 785 788 823
CAD 18,670 18,745 19,268
NZD 15,243 15,748
KRW 18.14 19.90
Cập nhật: 05/08/2025 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26010 26010 26370
AUD 16619 16719 17286
CAD 18650 18750 19306
CHF 31969 31999 32889
CNY 0 3615.3 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4100 0
EUR 29939 30039 30814
GBP 34312 34362 35475
HKD 0 3330 0
JPY 173.78 174.78 181.29
KHR 0 6.347 0
KRW 0 18.6 0
LAK 0 1.155 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2575 0
NZD 0 15289 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2735 0
SGD 19952 20082 20812
THB 0 751.8 0
TWD 0 885 0
XAU 11900000 11900000 12330000
XBJ 10600000 10600000 12330000
Cập nhật: 05/08/2025 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,010 26,060 26,310
USD20 26,010 26,060 26,310
USD1 26,010 26,060 26,310
AUD 16,644 16,794 17,865
EUR 29,959 30,109 31,298
CAD 18,592 18,692 20,012
SGD 20,026 20,176 20,651
JPY 170.94 172.66 181.8
GBP 34,357 34,507 35,286
XAU 12,168,000 0 12,332,000
CNY 0 3,498 0
THB 0 787 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 05/08/2025 03:00