Covid-19 khiến khu vực châu Á đang phát triển chỉ tăng trưởng 0,1% trong năm 2020

14:52 | 18/06/2020

154 lượt xem
|
Theo dự báo của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), châu Á đang phát triển sẽ chỉ tăng trưởng 0,1% trong năm 2020 do các biện pháp ngăn chặn để xử lý đại dịch Covid-19 đang cản trở hoạt động kinh tế và làm suy giảm nhu cầu bên ngoài.

Cụ thể, trong bản bổ sung định kỳ cho ấn phẩm kinh tế thường niên hàng đầu của mình, báo cáo Triển vọng Phát triển châu Á (ADO) 2020 được công bố hồi tháng 4, ADB dự báo tăng trưởng của khu vực trong năm 2020 là 0,1%.

Con số này giảm so với mức dự báo 2,2% trong tháng 4, và sẽ là mức tăng trưởng thấp nhất của khu vực kể từ năm 1961. Tăng trưởng trong năm 2020 được dự kiến đạt 6,2%, như dự báo trong tháng 4. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong năm 2021 sẽ vẫn thấp hơn các mức đã được dự báo và nằm dưới các xu hướng trước khủng hoảng.

Không tính các nền kinh tế công nghiệp hóa mới gồm Hồng Kông, Trung Quốc; Hàn Quốc; Singapore; và Đài Loan, Trung Quốc, châu Á đang phát triển được dự báo tăng trưởng 0,4% trong năm nay và 6,6% trong năm 2021.

covid 19 khien khu vuc chau a dang phat trien chi tang truong 01 trong nam 2020
Covid-19 khiến khu vực châu Á đang phát triển chỉ tăng trưởng 0,1% trong năm 2020 (ảnh minh họa)

Chuyên gia Kinh tế trưởng của ADB, ông Yasuyuki Sawada, nhận định: “Các nền kinh tế ở châu Á và Thái Bình Dương sẽ tiếp tục cảm nhận tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 trong năm nay, ngay cả khi các biện pháp phong tỏa dần được nới lỏng và những hoạt động kinh tế chọn lọc được bắt đầu lại trong một kịch bản “bình thường mới”. Mặc dù chúng tôi nhận thấy triển vọng tăng trưởng cao hơn cho khu vực trong năm 2021, song điều này chủ yếu là do các mức tăng trưởng yếu kém trong năm nay, và đây sẽ không phải là sự phục hồi theo hình chữ V. Các chính phủ cần tiến hành những biện pháp chính sách để giảm tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 và bảo đảm không xuất hiện những làn sóng bùng phát mới”.

Triển vọng này vẫn có nguy cơ suy giảm. Đại dịch Covid-19 có thể chứng kiến nhiều làn sóng bùng phát trong giai đoạn sắp tới và các cuộc khủng hoảng tài chính và nợ công không thể bị loại trừ. Cũng có nguy cơ về sự leo thang mới trong căng thẳng thương mại giữa Hoa Kỳ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc).

Đông Á được dự báo tăng trưởng 1,3% trong năm 2020 - đây là tiểu vùng duy nhất có sự tăng trưởng trong năm nay - trong khi mức tăng trưởng của năm 2021 sẽ phục hồi tới 6,8%. Tăng trưởng của Trung Quốc được dự báo đạt 1,8% trong năm nay và 7,4% trong năm 2021, so với các mức dự báo tương ứng hồi tháng 4 là 2,3% và 7,3%.

Chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19, tăng trưởng ở Nam Á được dự báo giảm 3,0% trong năm 2020, so với mức tăng 4,1% như dự báo trong tháng 4. Các triển vọng tăng trưởng cho năm 2021 được điều chỉnh giảm từ 6,0% xuống còn 4,9%. Nền kinh tế của Ấn Độ được dự báo thu hẹp 4,0% trong năm tài khóa 2020, kết thúc vào ngày 31/3/2021, trước khi tăng 5,0% trong năm tài khóa 2021.

Hoạt động kinh tế ở Đông Nam Á được dự báo giảm 2,7% trong năm nay trước khi tăng lên 5,2% trong năm 2021. Mức tăng trưởng giảm được dự báo ở các nền kinh tế then chốt do những biện pháp ngăn chặn gây ảnh hưởng tới cầu nội địa và đầu tư, bao gồm Indonesia (-1,0%), Philippines (-3,8%), và Thái Lan (-6,5%). Việt Nam được dự báo đạt mức tăng trưởng 4,1% trong năm 2020. Mặc dù con số này thấp hơn 0,7 điểm phần trăm so với dự báo hồi tháng 4 của ADB, song đây vẫn là mức tăng trưởng nhanh nhất được kỳ vọng tại Đông Nam Á.

Hoạt động kinh tế của Trung Á được dự báo giảm 0,5% so với mức tăng trưởng dự báo là 2,8% hồi tháng 4, do những gián đoạn về thương mại và giá dầu thấp. Tăng trưởng được dự báo phục hồi ở mức 4,2% trong năm 2021.

Các dòng chảy thương mại bị hạn chế và hoạt động du lịch giảm sút đã tác động nặng nề tới triển vọng kinh tế của Thái Bình Dương. Nền kinh tế tiểu vùng được dự báo giảm 4,3% trong năm 2020, trước khi tăng trưởng 1,6% trong năm 2021.

Lạm phát ở châu Á đang phát triển được dự báo ở mức 2,9% trong năm 2020, giảm so với mức dự báo 3,2% trong tháng 4, phản ánh nhu cầu bị kìm nén và giá dầu thấp. Trong năm 2021, dự báo lạm phát giảm còn 2,4%.

covid 19 khien khu vuc chau a dang phat trien chi tang truong 01 trong nam 2020Chuyển dịch đầu tư: Cờ tới tay, Việt Nam phất thay Trung Quốc?
covid 19 khien khu vuc chau a dang phat trien chi tang truong 01 trong nam 2020Kinh tế Việt Nam vẫn có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất châu Á dù bị ảnh hưởng bởi Covid-19
covid 19 khien khu vuc chau a dang phat trien chi tang truong 01 trong nam 2020Thị trường trái phiếu Việt Nam giảm mạnh nhất khu vực Đông Á mới nổi vì dịch Covid-19
covid 19 khien khu vuc chau a dang phat trien chi tang truong 01 trong nam 2020Dịch Covid-19 có tác động đáng kể về kinh tế đối với châu Á đang phát triển

PV

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 122,200 ▲500K 123,800 ▲500K
AVPL/SJC HCM 122,200 ▲500K 123,800 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 122,200 ▲500K 123,800 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,000 ▲50K 11,100 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,990 ▲50K 11,090 ▲50K
Cập nhật: 05/08/2025 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117,500 ▲500K 120,000 ▲500K
Hà Nội - PNJ 117,500 ▲500K 120,000 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 117,500 ▲500K 120,000 ▲500K
Miền Tây - PNJ 117,500 ▲500K 120,000 ▲500K
Tây Nguyên - PNJ 117,500 ▲500K 120,000 ▲500K
Đông Nam Bộ - PNJ 117,500 ▲500K 120,000 ▲500K
Cập nhật: 05/08/2025 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,440 ▲20K 11,890 ▲20K
Trang sức 99.9 11,430 ▲20K 11,880 ▲20K
NL 99.99 10,790 ▼50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,790 ▼50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,650 ▲20K 11,950 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,650 ▲20K 11,950 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,650 ▲20K 11,950 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 12,220 ▲50K 12,380 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 12,220 ▲50K 12,380 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 12,220 ▲50K 12,380 ▲50K
Cập nhật: 05/08/2025 15:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,222 ▲5K 12,382 ▲50K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,222 ▲5K 12,383 ▲50K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,168 ▲5K 1,193 ▲5K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,168 ▲5K 1,194 ▲5K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,168 ▲5K 1,187 ▲5K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 113,025 ▲101772K 117,525 ▲105822K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 82,284 ▲375K 89,184 ▲375K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 73,974 ▲340K 80,874 ▲340K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 65,664 ▲305K 72,564 ▲305K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 62,459 ▲292K 69,359 ▲292K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 42,753 ▲209K 49,653 ▲209K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Cập nhật: 05/08/2025 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16397 16665 17240
CAD 18482 18759 19375
CHF 31728 32109 32755
CNY 0 3570 3690
EUR 29614 29886 30921
GBP 33968 34358 35292
HKD 0 3209 3411
JPY 171 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 15126 15713
SGD 19796 20077 20601
THB 725 788 841
USD (1,2) 25954 0 0
USD (5,10,20) 25994 0 0
USD (50,100) 26023 26057 26397
Cập nhật: 05/08/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,006 26,006 26,366
USD(1-2-5) 24,966 - -
USD(10-20) 24,966 - -
GBP 34,363 34,456 35,314
HKD 3,277 3,286 3,386
CHF 31,971 32,071 32,876
JPY 174.72 175.04 182.46
THB 771.59 781.12 835.66
AUD 16,655 16,715 17,187
CAD 18,686 18,746 19,284
SGD 19,952 20,014 20,688
SEK - 2,661 2,752
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,986 4,124
NOK - 2,506 2,592
CNY - 3,597 3,695
RUB - - -
NZD 15,106 15,246 15,690
KRW 17.42 18.17 19.61
EUR 29,826 29,849 31,051
TWD 790.8 - 956.67
MYR 5,790.16 - 6,531.11
SAR - 6,862.61 7,222.57
KWD - 83,375 88,641
XAU - - -
Cập nhật: 05/08/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,010 26,015 26,355
EUR 29,680 29,799 30,921
GBP 34,185 34,322 35,305
HKD 3,271 3,284 3,389
CHF 31,790 31,918 32,819
JPY 174.04 174.74 182.16
AUD 16,605 16,672 17,211
SGD 19,989 20,069 20,614
THB 788 791 827
CAD 18,675 18,750 19,272
NZD 15,227 15,731
KRW 18.13 19.89
Cập nhật: 05/08/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26035 26035 26395
AUD 16577 16677 17248
CAD 18667 18767 19321
CHF 31976 32006 32892
CNY 0 3612.3 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4100 0
EUR 29910 30010 30783
GBP 34274 34324 35443
HKD 0 3330 0
JPY 174.33 175.33 181.85
KHR 0 6.347 0
KRW 0 18.6 0
LAK 0 1.155 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2575 0
NZD 0 15241 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2735 0
SGD 19956 20086 20819
THB 0 754.4 0
TWD 0 885 0
XAU 11900000 11900000 12380000
XBJ 10600000 10600000 12380000
Cập nhật: 05/08/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,020 26,070 26,310
USD20 26,020 26,070 26,310
USD1 26,020 26,070 26,310
AUD 16,632 16,732 17,846
EUR 29,973 29,973 31,287
CAD 18,604 18,704 20,016
SGD 20,035 20,185 20,653
JPY 172 173.73 182.92
GBP 34,409 34,559 35,325
XAU 12,218,000 0 12,382,000
CNY 0 3,495 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 05/08/2025 15:00