FED cố tình tạo ra cuộc suy thoái kinh tế 2023?

14:00 | 27/12/2022

1,200 lượt xem
|
PetroTimes xin giới thiệu bài viết của Patti Domm, biên tập viên thị trường của CNBC, đưa ra các quan điểm khác nhau về cuộc suy thoái kinh tế 2023 và dự báo của các nhà kinh tế trưởng thuộc Big Four, bao gồm: Mark Zandi, kinh tế trưởng của Moody’s Analytics; Diane Swonk, nữ kinh tế trưởng của KPMG; Tom Simons, nhà kinh tế thị trường tiền tệ tại Jefferies.
FED cố tình tạo ra cuộc suy thoái kinh tế 2023?

Các nhà kinh tế đều dự đoán xảy ra suy thoái vào 2023, song không thống nhất về thời gian kéo dài và mức độ suy thoái.

Mọi người đều đồng ý rằng chính sách nâng lãi suất của FED là căn nguyên của cuộc suy thoái này.

Thường thì không ai biết trước suy thoái xảy ra, những cuộc suy thoái kinh tế thường gây bất ngờ. Nhưng suy thoái sắp tới đã được các nhà kinh tế dự đoán hàng tháng trước và nó sẽ xảy ra vào đầu 2023. Suy thoái nặng hay nhẹ, lâu dài hay thoáng qua vẫn còn là một chủ đề bàn luận. Nhưng vấn đề được các nhà kinh tế nhất trí là chúng ta đang bước vào một thời kỳ nền kinh tế đang bị thu hẹp .

Trong lịch sử, khi lạm phát cao, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) sẽ tăng lãi suất để chế ngự lạm phát, kết quả là kinh tế sẽ đi xuống hay suy thoái, Mark Zandi, kinh tế trưởng của Moody’s Analytics nói. Điều đó luôn xảy ra như vậy, bối cảnh lạm phát cầu kéo thông thường do cầu tăng cao và sản xuất không theo kịp sẽ dẫn tới suy thoái.

Khi lạm phát tăng cao, phản ứng của FED sẽ là đẩy lãi suất lên, và cuối cùng thì kinh tế không chịu đựng nữa.

Zandi nằm trong số ít các nhà kinh tế tin rằng FED có thể tránh được suy thoái khi tăng lãi suất trong khoảng thời gian dài để tránh ngắt mạch quá trình tăng trưởng. Kỳ vọng là kinh tế sẽ chỉ dừng lại đôi chút.

Thường thì không ai biết trước suy thoái xảy ra. Bây giờ, mọi nhà kinh tế, các CEO, ở khắp mọi nơi, đều nói tới suy thoái. Nhưng Zandi có quan điểm khác.

Lần này thì FED lại là tội đồ

FED đang làm chậm lại kinh tế, sau khi ra tay cứu hai cuộc suy thoái kinh tế vừa qua.

Ngân hàng trung ương đã hỗ trợ kích thích cho vay bằng cách hạ lãi suất xuống 0% và thúc đẩy thanh khoản thị trường bằng cách bơm thêm hàng ngàn tỷ USD vào các danh mục tài sản trên bảng cân đối kế toán. Bây giờ thì họ lại bán tài sản, và nhanh chóng nâng lãi suất từ mức 0% vào tháng 3 lên tới 4,25 - 4,5% vào tháng này.

Nhưng trong hai cuộc suy thoái vừa qua, các nhà chính sách không phải lo lắng về lạm phát cao ảnh hưởng đến sức mua của người tiêu dùng và chi tiêu của doanh nghiệp tác động đến nền kinh tế.

FED bây giờ đang phải chiến đấu nghiêm trọng với lạm phát. Các dự báo cho rằng lãi suất sẽ lên tới 5,1% vào đầu năm tới và duy trì ở mức đó để kiềm chế lạm phát.

Lãi suất cao đã giết chết thị trường nhà ở, doanh số bán nhà tháng 11 đã giảm 35,4% so với cùng kỳ năm trước, và là tháng thứ 10 liên tiếp sụt giảm. Lãi suất cầm cố cho vay mua nhà thời hạn 30 năm lên tới 7%. Chỉ số tiêu dùng vẫn còn rất nóng: tháng 11 vẫn là 7,1% so với cùng kỳ năm trước.

Đây là một cuộc suy thoái thông thường đã xảy ra trong quá khứ. Tom Simons, nhà kinh tế thị trường tiền tệ tại Jefferies nói. Cơ chế truyền dẫn mà chúng ta sẽ nhận thấy đầu tiên trong đầu năm tới là sức ép nghiêm trọng đến lợi nhuận của các công ty. Lúc đó các công ty sẽ cắt giảm chi phí, và nhân lực là bộ phận chịu trận đầu tiên. Chúng ta sẽ thấy rõ vào giữa năm sau, khi kinh tế giảm tốc đáng kể thì lạm phát cũng đồng thời giảm xuống.

Suy thoái có nặng không?

Một cuộc suy thoái được cho là kéo dài khi nó ảnh hưởng lớn đến kinh tế trong thời gian hai quý hoặc hơn. Văn phòng Quốc gia Nghiên cứu Kinh tế (NBER), cơ quan có thẩm quyền công bố về suy thoái kinh tế, xem xét mức độ, quy mô và thời gian của cuộc suy thoái. Nhưng khi có lĩnh vực nào đó đủ nghiêm trọng, NBER cũng có thể công bố suy thoái. Ví dụ cuộc suy thoái đại dịch 2020 là bất chợt và ảnh hưởng sâu rộng cũng được công bố là suy thoái dù xảy ra rất ngắn.

Diane Swonk, nữ kinh tế trưởng của KPMG nói gì? Bà Swonk hy vọng suy thoái này sẽ ngắn và giảm sút ít, và sẽ vượt qua nó một cách mau lẹ, nếu bảng cân đối kế toán tốt, đồng thời sẽ quay trở lại với lãi suất thấp một khi FED bắt đầu nới lỏng.

Dự phóng mới nhất của FED cho thấy tăng trưởng kinh tế 2023 là 0,5%, đó không phải là dự báo suy thoái. Theo nữ kinh tế trưởng của KPMG, có suy thoái vì FED muốn có suy thoái. Khi tăng trưởng sẽ hơn 0% và tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng, rõ ràng FED đã tính đến điều đó nhưng họ không nói ra. Ngân hàng trung ương dự báo tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng từ 3,7% hiện nay lên 4,6% vào năm tới.

FED quay xe

Chưa rõ các nhà chính sách giữ được lãi suất cao trong bao lâu. Các nhà giao dịch trên thị trường chứng khoán phái sinh hy vọng FED sẽ cắt giảm vào cuối năm tới. Các ngân hàng dự báo cắt giảm sẽ bắt đầu trong năm 2024.

Diane Swonk tin rằng FED sẽ phải quay xe trong một số điểm bởi một cuộc suy thoái, nhưng Simons lại cho rằng suy thoái sẽ diễn ra qua năm 2024 do lãi suất cao.

Theo Simons, thị trường rõ ràng nghĩ rằng FED sẽ đảo ngược lãi suất khi mọi việc giảm xuống. Đó không phải là cái mà FED cần để giữ độ tin cậy lâu dài đối phó với lạm phát. Hai cuộc suy thoái vừa qua đã xảy ra sau khi gây sốc. Suy thoái 2008 bắt nguồn từ hệ thống tài chính, suy thoái hiện nay sẽ hoàn toàn khác, Simons nói. Năm 2008, cơ bản là không thể vay được tiền mặc dù lãi suất thấp, dòng chảy tín dụng chậm đi rất nhiều. Thị trường cho vay cầm cố đã bị vỡ. Thị trường tài chính chịu trận vì sự lây lan của các sản phẩm phái sinh. Tất cả xuất phát từ tài chính. Nó không phải là chính sách tiền tệ thắt chặt của FED khi tăng lãi suất, thị trường bị đóng do thiếu thanh khoản và lòng tin. Tôi không nghĩ tình hình bây giờ giống thế, Simons nói.

Cuộc suy thoái dường như đã kéo dài hơn khi xem xét lại, Swonk nói. Nó bắt đầu từ tháng 1/2008. Có vẻ như nó đã kéo dài một năm rưỡi. Chúng ta có một năm nhưng lại không nhận ra mặc dù về mặt kỹ thuật chúng đã xảy ra. Cuộc suy thoái kinh tế đại dịch 2020 chỉ xảy ra trong hai tháng.

Trong khi đó khả năng có một cuộc suy thoái đã xuất hiện trong một thời gian, FED đã thất bại trong việc làm giảm việc làm và giảm độ nóng kinh tế thông qua thị trường lao động. Những công bố cắt giảm việc làm đang tăng lên, một số nhà kinh tế nhìn thấy khả năng giảm sút việc làm trong năm tới.

Trớ trêu là mọi người đang chờ đợi một cuộc suy thoái, Swonk nói. Nó có thể thay đổi hành vi của họ, nên kinh tế sẽ nguội bớt và FED sẽ không phải thắt chặt như vậy để bóp nghẹt kinh tế.

Theo Mark Zandi, kinh tế trưởng của Moody’s Analytics thì hệ thống tài chính chưa bao giờ đạt vốn hóa và thanh khoản cao như vậy. Thị trường nhà ở đang ở mức thấp. Thường thì việc xây cất quá nhiều sẽ dẫn đến suy thoái. Có thể thấy cơ sở kinh tế có vẻ mạnh.

Nhưng Swonk nói các nhà chính sách sẽ không dừng chiến đấu với lạm phát cho tới khi chiến thắng. Khó có thể nói FED sẽ có một cuộc hạ cánh mềm, FED cần năng động hơn.

Hồng Thanh (Thực hiện)

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 123,200 ▲500K 124,400 ▲300K
AVPL/SJC HCM 123,200 ▲500K 124,400 ▲300K
AVPL/SJC ĐN 123,200 ▲500K 124,400 ▲300K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,000 11,100
Nguyên liệu 999 - HN 10,990 11,090
Cập nhật: 08/08/2025 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117,500 120,000
Hà Nội - PNJ 117,500 120,000
Đà Nẵng - PNJ 117,500 120,000
Miền Tây - PNJ 117,500 120,000
Tây Nguyên - PNJ 117,500 120,000
Đông Nam Bộ - PNJ 117,500 120,000
Cập nhật: 08/08/2025 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,490 ▲10K 11,940 ▲10K
Trang sức 99.9 11,480 ▲10K 11,930 ▲10K
NL 99.99 10,840 ▲10K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,840 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,700 ▲10K 12,000 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,700 ▲10K 12,000 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,700 ▲10K 12,000 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 12,320 ▲80K 12,440 ▲60K
Miếng SJC Nghệ An 12,320 ▲80K 12,440 ▲60K
Miếng SJC Hà Nội 12,320 ▲80K 12,440 ▲60K
Cập nhật: 08/08/2025 23:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,232 ▲8K 1,244 ▲6K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,232 ▲8K 12,442 ▲60K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,232 ▲8K 12,443 ▲60K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,173 ▲5K 1,198 ▲5K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,173 ▲5K 1,199 ▲5K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,172 ▲5K 1,192 ▲5K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 11,352 ▼101673K 11,802 ▼105723K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 82,359 ▲375K 89,559 ▲375K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 74,014 ▲340K 81,214 ▲340K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 65,669 ▲305K 72,869 ▲305K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 62,451 ▲292K 69,651 ▲292K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 42,661 ▲208K 49,861 ▲208K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,232 ▲8K 1,244 ▲6K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,232 ▲8K 1,244 ▲6K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,232 ▲8K 1,244 ▲6K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,232 ▲8K 1,244 ▲6K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,232 ▲8K 1,244 ▲6K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,232 ▲8K 1,244 ▲6K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,232 ▲8K 1,244 ▲6K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,232 ▲8K 1,244 ▲6K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,232 ▲8K 1,244 ▲6K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,232 ▲8K 1,244 ▲6K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,232 ▲8K 1,244 ▲6K
Cập nhật: 08/08/2025 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16561 16830 17409
CAD 18558 18835 19453
CHF 31784 32165 32801
CNY 0 3570 3690
EUR 29870 30142 31170
GBP 34430 34822 35759
HKD 0 3209 3411
JPY 170 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 15301 15885
SGD 19859 20141 20666
THB 726 789 842
USD (1,2) 25954 0 0
USD (5,10,20) 25994 0 0
USD (50,100) 26023 26057 26399
Cập nhật: 08/08/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,044 26,044 26,404
USD(1-2-5) 25,002 - -
USD(10-20) 25,002 - -
GBP 34,783 34,877 35,745
HKD 3,282 3,291 3,391
CHF 32,089 32,189 32,989
JPY 174.72 175.03 182.4
THB 773.2 782.75 838.16
AUD 16,824 16,885 17,360
CAD 18,762 18,822 19,367
SGD 20,036 20,098 20,767
SEK - 2,690 2,783
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,024 4,162
NOK - 2,516 2,606
CNY - 3,603 3,700
RUB - - -
NZD 15,285 15,426 15,875
KRW 17.44 18.19 19.63
EUR 30,110 30,134 31,346
TWD 792.93 - 959.88
MYR 5,782.22 - 6,522
SAR - 6,870.81 7,231.24
KWD - 83,562 88,839
XAU - - -
Cập nhật: 08/08/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,030 26,030 26,370
EUR 29,960 30,080 31,206
GBP 34,592 34,731 35,719
HKD 3,273 3,286 3,391
CHF 31,893 32,021 32,925
JPY 173.94 174.64 182.06
AUD 16,742 16,809 17,350
SGD 20,063 20,144 20,692
THB 789 792 828
CAD 18,727 18,802 19,327
NZD 15,362 15,868
KRW 18.15 19.92
Cập nhật: 08/08/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26040 26040 26400
AUD 16751 16851 17421
CAD 18744 18844 19400
CHF 32042 32072 32959
CNY 0 3614.5 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4100 0
EUR 30170 30270 31045
GBP 34758 34808 35919
HKD 0 3330 0
JPY 174.09 175.09 181.61
KHR 0 6.347 0
KRW 0 18.6 0
LAK 0 1.155 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2575 0
NZD 0 15419 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2735 0
SGD 20023 20153 20886
THB 0 755.4 0
TWD 0 885 0
XAU 12000000 12000000 12450000
XBJ 10600000 10600000 12450000
Cập nhật: 08/08/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,030 26,080 26,350
USD20 26,030 26,080 26,350
USD1 26,030 26,080 26,350
AUD 16,775 16,875 18,008
EUR 30,178 30,178 31,528
CAD 18,674 18,774 20,107
SGD 20,078 20,228 20,719
JPY 174.45 175.95 180.73
GBP 34,794 34,944 35,759
XAU 12,318,000 0 12,442,000
CNY 0 3,497 0
THB 0 790 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 08/08/2025 23:00