Trong căn nhà tại xã Lại Yên, huyện Hoài Đức, Hà Nội, một buổi chiều đầu tháng Sáu, giữa cái oi nồng đầu hạ, tôi gặp ông Nguyễn Đăng Liệu - nguyên Phó Tổng Giám đốc Petrovietnam nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (nay là Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam - Petrovietnam) sắp tới. Mái tóc điểm nhiều sợi bạc, dáng người cao to, ông đón chúng tôi bằng một cái bắt tay ấm áp và đôi mắt vẫn đầy nhiệt huyết - thứ nhiệt huyết mà thời gian dường như chưa thể làm phai mờ sau gần 80 năm cuộc đời và 35 năm gắn bó với ngành dầu khí.
Trong câu chuyện đầy cảm xúc nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Petrovietnam, ông Nguyễn Đăng Liệu đã chia sẻ với chúng tôi những kỷ niệm sâu sắc, những khó khăn cam go trong hành trình tìm “vàng đen” và cả niềm tin son sắt vào thế hệ trẻ tiếp bước con đường chinh phục tài nguyên của Tổ quốc.
![]() |
Ông Nguyễn Đăng Liệu tiếp phóng viên tại căn nhà ở xã Lại Yên, Hoài Đức, Hà Nội |
Ông Nguyễn Đăng Liệu bắt đầu bước vào công tác trong ngành dầu khí từ tháng 12/1972, khi đất nước còn chia cắt và bom đạn vẫn chưa ngơi nghỉ. Trong suốt 35 năm gắn bó, ông bắt đầu từ một kỹ sư địa vật lý, đội trưởng sản xuất, trưởng phòng , giám đốc đơn vị cơ sở, rồi trở thành lãnh đạo của Petrovietnam. Mỗi vị trí, mỗi giai đoạn đều ghi dấu ấn đáng nhớ.
Rót ly trà mời chúng tôi, ông say sưa kể về những năm công tác trong ngành dầu khí. Với ông, làm công việc gì, ở vị trí nào cũng để lại trong ông nhiều kỷ niệm, nhưng có lẽ, những tháng năm lênh đênh ngoài khơi tìm “vàng đen” ở khu vực biển phía Nam là quãng thời gian vất vả, gian truân và đầy ắp những hoài niệm.
Ông Liệu kể, ngay sau ngày giải phóng miền Nam, tôi mang trong mình khát vọng được cống hiến ngay trên những vùng biển rộng lớn của Tổ quốc. Và chỉ 3 tháng sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, tôi có cơ hội tham gia xây dựng dự án và sau đó là Đội trưởng điều hành khảo sát địa vật lý để xác định lại cấu tạo Bạch Hổ - sau này trở thành mỏ dầu lớn nhất Việt Nam.
Đó là khoảng tháng 8/1975, tôi cùng một số anh em được phân công vào Nam để bắt đầu những bước đầu tiên trong công tác khảo sát dầu khí. Khi đó, Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt chưa được thành lập, nên việc xin vé máy bay, chuẩn bị phương tiện, tài liệu đều rất thủ công và vất vả.
Chúng tôi được giao đảm nhận nhiệm vụ thiết kế phương án khảo sát địa vật lý gồm các phương pháp địa chấn, trọng lực và từ trên toàn vùng ven biển và Đồng bằng sông Cửu Long. Trong thời gian đó, một mặt chúng tôi khảo sát mới, mặt khác là thu gom, phục hồi lại tài liệu của các công ty dầu khí Mỹ để lại sau khi rút đi năm 1975. Có những văn phòng, kho tư liệu bị bỏ hoang, anh em phải tìm đến, lục lại từng bản đồ, gom từng trang tài liệu, đó là những ngày đầu gian nan nhất.
![]() |
Ông Nguyễn Đăng Liệu (bên phải) xem tài liệu trên tàu địa chấn |
Cuối năm 1975, sau khi hoàn tất thiết kế mạng lưới khảo sát, chúng tôi trình lên Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt và thông qua Bộ Ngoại thương để trình ký hợp đồng thuê tàu khảo sát địa chấn của Pháp. Còn tàu mà để các anh em làm việc cùng chuyên gia nước ngoài đi khảo sát thì tận dụng tàu trong nước. Để tiết kiệm chi phí, chúng tôi tìm được tàu to mà ngày xưa Mỹ dùng để làm đốc nổi, bệnh viện di động của hải quân, sau đó cho vào xưởng Ba Son để tân tạo lại phục vụ ăn ở cho cán bộ kỹ thuật.
Đến ngày 6/3/1976, chuyến khảo sát đầu tiên chính thức bắt đầu. Đó cũng là “phát súng khai màn” của ngành địa vật lý biển Việt Nam. Tuy nhiên, ngay ngày đầu tiên, chúng tôi gặp bão, trước đó chúng tôi cũng kịp nổ được một số điểm, sau gió to, những con sóng mỗi lúc một lớn làm tàu chao đảo nên chúng tôi phải quay vào bờ trú ẩn. Những ngày sau, công việc được tiếp tục và kéo dài tới hết tháng 6. Sau khi xong khảo sát ngoài khơi, chúng tôi tiến vào sông, kênh rạch ở Đồng bằng sông Cửu Long, phối hợp với hải quân vùng 5 để khảo sát các tuyến trên sông Tiền Giang, sông Hậu, Gành Hào (Cà Mau), kênh Phụng Hiệp... Công việc gian nan, kéo dài đến tận cuối năm 1976.
Giai đoạn năm 1978-1979, chúng tôi tiếp tục khảo sát với quy mô lớn hơn trên các tàu địa vật lý thuê. Khi đó, hợp tác với công ty Zika của Na Uy khảo sát trên các tàu địa vật lý như LONGVA2, GECO, POISK...; làm việc suốt trên phần lớn các lô và khu vực biển có triển vọng dầu khí của thềm lục địa Việt Nam, có đợt nằm trên biển ba tháng liền, không vào bờ - một công việc khổng lồ, gian nan nhưng cũng vô cùng vinh quang.
Sau khi xử lý toàn bộ dữ liệu, kết hợp với tài liệu Mỹ để lại, chúng tôi xác định được các vùng có triển vọng dầu khí, đặc biệt là cấu tạo Bạch Hổ, Rồng, Cửu Long (sau là Rạng Đông), Đồng Nai - La Ngà (sau là cụm mỏ Sư Tử)... lần lượt được xác định. Những tấm bản đồ đầu tiên, những tuyến địa chấn đầu tiên, những cột sóng, cột gió mà anh em vượt qua năm ấy đã đặt nền móng cho ngành dầu khí hiện đại của Việt Nam.
Trong hành trình khảo sát ở thềm lục địa, có rất nhiều kỷ niệm khó quên. “Tôi nhớ một lần tránh bão ở Côn Đảo. Tàu lớn không thể cập sát bờ do mớn nước sâu, nhìn thấy bờ gần lắm, nhưng tàu không vào được. Mấy anh em nôn nóng quá, liều dùng phao cá nhân nhảy xuống bơi vào. Khi lên bờ, bà con chỉ trỏ mắng, các anh liều thật, chỗ vùng này là “mũi cá mập”, rất nguy hiểm sao các anh dám bơi vào? Nghe xong, anh em ai cũng tái hết mặt. May hôm đó biển động, cá mập không vào, chứ không thì giờ tôi không có dịp kể lại chuyện này”, ông Liệu nhớ lại.
Nhớ có một đồng nghiệp ra biển được đúng một hôm thì say sóng khủng khiếp. Nghi ngờ viêm ruột thừa, chúng tôi phải đưa anh vào bờ cấp cứu. Tàu thuê theo ngày, đắt đỏ lắm - 3.000 France một ngày. Mỗi phút trì hoãn là tốn ngân sách của Nhà nước. Thế nên sau đó, dù có say, vẫn phải ráng chịu. Sau này, khi về bờ, nhắc lại chuyện say sóng, có anh em kinh đến già...
Đến năm 1978, sau khi khảo sát phủ rộng vùng thềm lục địa phía Nam, Việt Nam bắt đầu có đủ dữ liệu để mời gọi các công ty nước ngoài hợp tác thăm dò, khai thác dầu khí. Đó là bước ngoặt quan trọng, mở đường cho sự hình thành và phát triển ngành dầu khí hiện đại của nước ta.
Rót thêm trà cho chúng tôi, ông Liệu kể tiếp, giai đoạn 1961-1975, ngành còn ở dạng “phôi thai”, vừa hình thành đội ngũ, vừa loay hoay với cơ sở vật chất gần như không có gì. “Khi ấy, chỉ có vài chục kỹ sư địa chất - địa vật lý - khoan mới tốt nghiệp từ Liên Xô, Romani trở về cùng làm việc với các chuyên gia Liên Xô. Vũ khí của chúng tôi là tinh thần học hỏi và niềm tin mãnh liệt của Đảng, Chính phủ rằng, Việt Nam nhất định có dầu và sẽ xây dựng được một ngành công nghiệp dầu khí hiện đại”, ông Liệu chia sẻ.
Trong điều kiện đất nước bị chiến tranh tàn phá, cả ngành vẫn lặng lẽ chuẩn bị lực lượng: gửi người đi học, tiếp nhận chuyên gia quốc tế, xây dựng cơ sở nền tảng để sẵn sàng khi thời cơ đến. Chính nhờ những bước đi căn cơ đó mà đến năm 1975 - sau khi đất nước thống nhất - dầu khí Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ.
Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam được thành lập ngày 3/9/1975, đánh dấu thời kỳ tổ chức bài bản các hoạt động thăm dò và khai thác. Tuy nhiên, lúc đó khó khăn vẫn chồng chất. “Ở Đồng bằng sông Hồng, điều kiện địa chất phức tạp; ngoài biển, kỹ thuật lại quá mới mẻ, tốn kém và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thế giới khi ấy chỉ có các tập đoàn năng lượng lớn mới đủ sức làm chủ công nghệ khai thác biển sâu”, ông Liệu nói.
Đặc biệt, Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong việc hợp tác quốc tế, tiếp cận công nghệ tiên tiến, nguồn vốn nước ngoài; cũng như mở rộng phạm vi thăm dò ngoài khơi. Nhưng với tư duy linh hoạt, Đảng và Chính phủ đã chủ trương ký hợp đồng chia sản phẩm (PSC) với các biến thể phù hợp với các công ty nước ngoài, vừa thu hút đầu tư, vừa tranh thủ chuyển giao kỹ thuật. Chính sách này trở thành một bước ngoặt quan trọng, mở ra “cánh cửa lớn” vươn ra biển lớn.
![]() |
Giàn MSP1 khai thác tấn dầu đầu tiên trên mỏ Bạch Hổ năm 1986 |
Ông Nguyễn Đăng Liệu không giấu được xúc động khi nhớ lại thời khắc lịch sử, ngày 26/6/1986 - khi những dòng dầu đầu tiên từ mỏ Bạch Hổ chính thức được khai thác. Đó là kết quả của biết bao nỗ lực âm thầm, của những năm tháng sống và làm việc trong điều kiện vô cùng khắc nghiệt, nhưng chan chứa niềm tin.
Từ thành công bước đầu đó, dầu khí Việt Nam tiếp tục vươn xa. Những mỏ dầu khí mới như Đại Hùng, Rồng, Rạng Đông, Ruby lần lượt được đưa vào khai thác. Không dừng ở đó, Việt Nam còn chủ động xây dựng các nhà máy khí - điện - đạm, đặc biệt là Nhà máy Đạm Phú Mỹ (vận hành từ năm 2004) - một biểu tượng cho sự trưởng thành toàn diện của ngành.
“Những năm 1990-2005 là giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Tôi vinh dự được tham gia vào quá trình hoạch định chiến lược, xây dựng nền tảng cho giai đoạn phát triển bùng nổ sau này. Ngày Tập đoàn chính thức thành lập năm 2006 là một cột mốc tự hào, không chỉ với tôi mà với cả thế hệ cán bộ dầu khí đi trước”, ông Liệu bồi hồi nhớ lại.
Sau khi nghỉ hưu, ông Nguyễn Đăng Liệu vẫn dõi theo từng bước phát triển của ngành với niềm tự hào và tin tưởng. Ông khẳng định thế hệ cán bộ trẻ không chỉ giỏi chuyên môn, mà còn đầy nhiệt huyết và bản lĩnh.
“Tôi thực sự khâm phục họ. Những công trình khai thác biển quy mô lớn do Việt Nam tự thiết kế, chế tạo, vận hành - điều mà trước đây chúng tôi chỉ dám mơ - giờ đã là hiện thực. Nhiều công ty năng lượng quốc tế còn thuê chính kỹ sư Việt Nam tư vấn, xây dựng giàn khoan và hạ tầng biển. Đó là bước tiến vượt bậc”, ông Liệu nhấn mạnh.
Ông cũng nhắn nhủ: Những người làm trong lĩnh vực về năng lượng, ngoài năng lực, còn cần có cái tâm - biết tiết chế, biết lắng nghe và biết trân trọng những gì thiên nhiên ban tặng.
Ở tuổi gần 80, ông Nguyễn Đăng Liệu vẫn giữ ngọn lửa đam mê cháy mãi với nghề. Sau khi nghỉ hưu, ông tham gia Hội Dầu khí Việt Nam với tư cách Phó Chủ tịch và hiện đang là Ủy viên Ban Chấp hành Hội, có đóng góp nhất định trong công tác phản biện, xây dựng cơ chế, chính sách cho ngành.
Với ông, dầu khí không chỉ là một lĩnh vực kinh tế - đó còn là sứ mệnh chinh phục, bảo vệ chủ quyền biển đảo và làm giàu cho đất nước từ những gì sâu thẳm nhất dưới lòng đất mẹ.
Câu chuyện của ông Liệu không chỉ là những dòng hồi ức quý giá, mà còn là lời nhắc nhở cho thế hệ kế cận: hãy sống và làm việc với đam mê, trách nhiệm và một niềm tin son sắt vào tương lai, vào ngành công nghiệp - năng lượng đang chuyển mình vững bước.
Ông Nguyễn Đăng Liệu - Năm sinh: 1947 - Trình độ chuyên môn: Kỹ sư, Đại học Dầu khí Bucaret Rumani - Trình độ chính trị: Cao cấp Các chức vụ đã đảm nhận: - Đội trưởng Đội Địa chấn biển, Đoàn Vật lý 36F Công ty Dầu khí II - Kỹ sư trưởng Địa vật lý, Phó Phòng Kỹ thuật Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro - Trưởng Phòng Quản lý Khoa học Dầu khí, Viện Dầu khí Việt Nam - Giám đốc, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Công ty Địa Vật lý - Phó Giám đốc Công ty Petrovietnam II - Giám đốc, Phó Bí thư Chi bộ Công ty Petrovietnam I - Trưởng Phòng Khoa học Công nghệ Môi trường - Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Ban Chấp hành Đảng bộ Cơ quan Tổng công ty Dầu khí Việt Nam - Trưởng Phòng Tổ chức - Cán bộ Tổng công ty Dầu khí Việt Nam - Ủy viên Ban Cán sự Đảng Tổng công ty Dầu khí Việt Nam - Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam Khen thưởng: - Huân chương Lao động hạng Hai, hạng Ba - Chiến sĩ thi đua toàn quốc - Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ - Huân chương Hữu nghị của Cộng hòa Liên bang Nga - Huy chương Hữu nghị của Hàn Quốc |
Vũ Mạnh Tưởng