IMF hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu, cảnh báo "điều tồi tệ nhất chưa đến"

07:22 | 12/10/2022

549 lượt xem
|
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vừa dự báo tăng trưởng toàn cầu năm tới sẽ chậm lại ở mức 2,7% và dự đoán năm 2023, hàng triệu người trên thế giới sẽ cảm nhận suy thoái.

Trong báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới vừa công bố, IMF cho biết ngoài cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và đỉnh điểm của dịch Covid-19 thì đây là giai đoạn tăng trưởng suy yếu nhất kể từ năm 2001.

IMF ước tính GDP năm nay sẽ ở mức 3,2%, giảm so với dự báo 6% hồi năm 2021.

"Điều tồi tệ nhất vẫn chưa đến và nhiều người sẽ cảm nhận suy thoái trong năm 2023", báo cáo của IMF cho biết. Điều này cũng trùng với những cảnh báo trước đó của Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế giới và nhiều CEO trên toàn cầu.

Hơn 1/3 kinh tế toàn cầu sẽ chứng kiến tăng trưởng âm hai quý liên tiếp, trong khi đó 3 nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, EU và Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng chậm lại.

IMF hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu, cảnh báo điều tồi tệ nhất chưa đến - 1
IMF cảnh báo điều tồi tệ nhất vẫn chưa đến và nhiều người sẽ cảm nhận suy thoái trong năm 2023. (Ảnh: Reuters).

Những tác nhân gây bất ổn

IMF cho rằng 3 sự kiện lớn đang kéo lùi tăng trưởng toàn cầu là cuộc chiến ở Ukraine, cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt và kinh tế Trung Quốc chậm lại. Các sự kiện này đang cùng nhau tạo ra thời kỳ "biến động" về kinh tế, địa chính trị và sinh thái.

Trong đó, cuộc chiến ở Ukraine tiếp tục "gây bất ổn mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu". Những tác động của nó đã gây ra cho cuộc khủng hoảng năng lượng nghiêm trọng ở châu Âu và tàn phá đất nước Ukraine.

Giá khí đốt tự nhiên đã tăng hơn gấp 4 lần kể từ năm 2021 khi Nga giảm nguồn cung cho châu Âu xuống chỉ còn chưa đầy 20% so với mức năm 2021. Giá thực phẩm cũng tăng vọt do cuộc xung đột.

IMF dự đoán lạm phát toàn cầu sẽ đạt đỉnh vào cuối năm 2022, tăng từ mức 4,7% năm 2021 lên 8,8% và sẽ tiếp tục neo cao trong một thời gian dài, lâu hơn so với dự đoán trước đó. Theo IMF, đến năm 2023, lạm phát toàn cầu sẽ giảm xuống còn 6,5% và xuống 4,1% vào năm 2024.

Cơ quan này cũng lưu ý đến việc các chính phủ trên toàn thế giới sẽ sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lạm phát và đồng USD sẽ tiếp tục mạnh lên so với các loại tiền tệ khác.

Chính sách zero-Covid của Trung Quốc với các đợt phong tỏa cũng sẽ tiếp tục cản trở nền kinh tế nước này.

Đối với các nền kinh tế đang phát triển và các thị trường mới nổi, cú sốc năm 2022 sẽ "khơi lại vết thương kinh tế vốn đã được chữa lành một phần sau đại dịch", báo cáo cho biết.

Phát biểu tại Hội nghị thường niên năm 2022 của IMF và Ngân hàng Thế giới (WB), ông Axel Van Trotsenburg - Giám đốc điều hành của WB - cho rằng: "Chúng tôi nhận thấy tình trạng nghèo cùng cực lại gia tăng. Số lượng người sống ở mức 7 USD, chiếm 47% dân số thế giới, đang sống trong nghèo đói. Điều đó cho thấy rất rõ ràng rằng, mọi người đang bị tổn thương".

Kinh tế thế giới mong manh

IMF cũng nhấn mạnh rằng những rủi ro do điều chỉnh sai chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và chính sách tài chính đang tăng nhanh, trong khi nền kinh tế thế giới mong manh và các thị trường tài chính có dấu hiệu căng thẳng.

Báo cáo của IMF được công bố khi các nhà phân tích vẫn đang tranh luận liệu hành động mạnh tay của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có đủ ngăn chặn lạm phát đang cao nhất trong 40 năm ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương châu Âu đã đưa lãi suất dương trở lại, lần đầu kể từ năm 2014 và Ngân hàng Trung ương Anh trong tuần này đã phải công bố các biện pháp bổ sung để giữ ổn định nền kinh tế Anh và hãm đà tăng của lợi suất trái phiếu.

IMF cho rằng, việc thắt chặt tiền tệ tích cực và mạnh mẽ là cần thiết, nhưng điều đó cũng khiến một cuộc suy thoái lớn là không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, "chính sách tài khóa không nên đi ngược với những nỗ lực hạ nhiệt lạm phát của cơ quan quản lý tiền tệ". Trước đó, sau khi Thủ tướng Anh Liz Truss đưa ra một loạt biện pháp cắt giảm thuế, IMF cũng cho rằng bà Truss nên "đánh giá lại" gói tài khóa.

Năm 2023 sẽ tồi tệ hơn

Cuộc khủng hoảng năng lượng cũng sẽ đè nặng lên các nền kinh tế trên thế giới, đặc biệt là châu Âu, và đó "không phải là cú sốc nhất thời".

"Mùa đông năm 2022 sẽ là thách thức đối với châu Âu, nhưng mùa đông 2023 sẽ còn tồi tệ hơn", IMF nói và cho rằng cuộc tái sắp xếp nguồn cung năng lượng sau cuộc chiến ở Ukraine vẫn đang tiếp tục được mở rộng.

Cách xử lý cuộc khủng hoảng năng lượng của châu Âu cũng đang vấp phải những phản ứng trái chiều. Thượng nghị sĩ Mỹ Chris Murphy đã chỉ trích châu Âu quá coi trọng năng lượng của Nga và cho rằng châu Âu đã sai lầm khi gắn bó với Nga về năng lượng.

Nói với CNBC, CEO của JPMorgan Chase cho rằng cuộc khủng hoảng năng lượng là nằm trong dự đoán và Mỹ sẽ phải sản xuất nhiều dầu và khí đốt hơn.

"Mỹ cần phải đóng vai trò lãnh đạo thực sự. Mỹ là nhà sản xuất trụ cột chứ không phải Saudi Arabia. Đáng lẽ chúng ta phải làm điều đó ngay từ tháng 3", ông nói khi đề cập đến cuộc chiến Ukraine nổ ra vào ngày 24/2.

Thủ tướng Ba Lan Mateusz Morawiecki thì cho rằng các vấn đề năng lượng của châu Âu hiện nay như thiếu khí đốt, giá khí đốt và giá điện đắt đỏ trên khắp châu Âu là "hậu quả của một chính sách rất sai lầm và tai hại, mà dẫn đầu là Đức".

Theo Dân trí

Giá vàng hôm nay 12/10 tiếp đà giảmGiá vàng hôm nay 12/10 tiếp đà giảm
Nổ lớn ở hàng loạt thành phố của UkraineNổ lớn ở hàng loạt thành phố của Ukraine
Ukraine ngừng xuất khẩu điện sang châu ÂuUkraine ngừng xuất khẩu điện sang châu Âu
Thụy Điển sẽ không cho Nga tham gia điều tra sự cố Dòng chảy phương BắcThụy Điển sẽ không cho Nga tham gia điều tra sự cố Dòng chảy phương Bắc
Chính sách tiền tệ góp phần hiệu quả kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tếChính sách tiền tệ góp phần hiệu quả kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế
IMF hạ dự báo tăng trưởng của Eurozone do xung đột Nga - UkraineIMF hạ dự báo tăng trưởng của Eurozone do xung đột Nga - Ukraine

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,000 151,000
Hà Nội - PNJ 148,000 151,000
Đà Nẵng - PNJ 148,000 151,000
Miền Tây - PNJ 148,000 151,000
Tây Nguyên - PNJ 148,000 151,000
Đông Nam Bộ - PNJ 148,000 151,000
Cập nhật: 20/10/2025 00:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,700 15,100
Trang sức 99.9 14,690 15,090
NL 99.99 14,700
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,800 15,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,800 15,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,800 15,100
Miếng SJC Thái Bình 14,950 15,100
Miếng SJC Nghệ An 14,950 15,100
Miếng SJC Hà Nội 14,950 15,100
Cập nhật: 20/10/2025 00:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,495 15,102
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,495 15,103
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,502
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,503
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,457 1,487
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 142,728 147,228
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,186 111,686
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 93,776 101,276
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,366 90,866
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,351 86,851
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,664 62,164
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Cập nhật: 20/10/2025 00:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16578 16847 17436
CAD 18256 18532 19149
CHF 32561 32945 33595
CNY 0 3470 3830
EUR 30057 30330 31361
GBP 34558 34950 35889
HKD 0 3260 3463
JPY 168 172 178
KRW 0 17 19
NZD 0 14774 15359
SGD 19787 20069 20606
THB 719 782 837
USD (1,2) 26076 0 0
USD (5,10,20) 26117 0 0
USD (50,100) 26145 26165 26356
Cập nhật: 20/10/2025 00:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,156 26,156 26,356
USD(1-2-5) 25,110 - -
USD(10-20) 25,110 - -
EUR 30,447 30,471 31,570
JPY 172.51 172.82 179.89
GBP 35,031 35,126 35,934
AUD 16,796 16,857 17,287
CAD 18,461 18,520 19,032
CHF 33,037 33,140 33,792
SGD 20,003 20,065 20,676
CNY - 3,651 3,745
HKD 3,341 3,351 3,431
KRW 17.18 17.92 19.22
THB 773.87 783.43 833.25
NZD 14,803 14,940 15,281
SEK - 2,759 2,837
DKK - 4,072 4,186
NOK - 2,581 2,654
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,844.13 - 6,550
TWD 777.39 - 935.29
SAR - 6,925.89 7,244.45
KWD - 84,140 88,935
Cập nhật: 20/10/2025 00:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,175 26,176 26,356
EUR 30,246 30,367 31,451
GBP 34,804 34,944 35,882
HKD 3,325 3,338 3,440
CHF 32,708 32,839 33,732
JPY 171.48 172.17 179.09
AUD 16,763 16,830 17,346
SGD 20,034 20,114 20,626
THB 789 792 826
CAD 18,441 18,515 18,996
NZD 14,859 15,336
KRW 17.84 19.50
Cập nhật: 20/10/2025 00:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26164 26164 26356
AUD 16679 16779 17385
CAD 18413 18513 19117
CHF 32969 32999 33878
CNY 0 3661.6 0
CZK 0 1210 0
DKK 0 4100 0
EUR 30371 30401 31426
GBP 34876 34926 36034
HKD 0 3390 0
JPY 172.45 172.95 180.01
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.146 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2600 0
NZD 0 14877 0
PHP 0 423 0
SEK 0 2773 0
SGD 19968 20098 20831
THB 0 750.9 0
TWD 0 855 0
SJC 9999 15150000 15150000 15300000
SBJ 15000000 15000000 15300000
Cập nhật: 20/10/2025 00:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,135 26,185 26,356
USD20 26,135 26,185 26,356
USD1 23,846 26,185 26,356
AUD 16,706 16,806 17,946
EUR 30,485 30,485 31,849
CAD 18,328 18,428 19,769
SGD 20,021 20,171 20,672
JPY 172.57 174.07 178.92
GBP 34,933 35,083 35,905
XAU 15,148,000 0 15,302,000
CNY 0 3,541 0
THB 0 787 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/10/2025 00:00