Lãi suất trái phiếu Đông Á mới nổi phân hoá do Covid-19 tiếp tục khó đoán định

09:16 | 25/06/2021

396 lượt xem
|
Lãi suất trái phiếu tại thị trường Đông Á mới nổi phân hóa do những yếu tố thị trường cụ thể, trong khi sự không chắc chắn về đại dịch do vi-rút corona (COVID-19) và những quan ngại về áp lực lạm phát dẫn tới tâm lý thận trọng của nhà đầu tư, theo nhận định trong ấn bản mới nhất của báo cáo Giám sát Trái phiếu Châu Á do Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) công bố.

Từ ngày 28 tháng 2 tới 21 tháng 5, lãi suất trái phiếu chính phủ ngắn hạn (2 năm) giảm đáng kể trong bối cảnh các điều kiện thanh khoản phù hợp. Trong khi đó, việc phục hồi không đồng đều và các điều kiện kinh tế cơ bản ở từng thị trường cụ thể đã khiến lãi suất trái phiếu chính phủ dài hạn (10 năm) có sự phân hóa trong khu vực. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc); Hồng Kông, Trung Quốc; In-đô-nê-xia và Việt Nam công bố giảm lãi suất trái phiếu chính phủ cả ngắn hạn và dài hạn, trong khi Hàn Quốc, Ma-lai-xia và Phi-líp-pin công bố mức tăng.

Lãi suất trái phiếu Đông Á mới nổi phân hoá do Covid-19 tiếp tục khó đoán định
Ảnh minh hoạ

Thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của Đông Á mới nổi đã đạt 20,3 nghìn tỉ USD vào cuối tháng 3 năm nay. Tăng trưởng của thị trường trái phiếu ở mức khiêm tốn trong quý 1 năm 2021, đạt 2,2% so với mức tăng 3,1% cùng kỳ năm ngoái, do các chính phủ trong khu vực tìm cách cân bằng chính sách tài khóa và khu vực tư nhân vẫn thận trọng trong bối cảnh các đợt bùng phát mới và việc triển khai tiêm vắc-xin không đồng đều.

Thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của Việt Nam đã giảm 0,3% so với quý trước, do lượng trái phiếu chính phủ đang lưu hành sụt giảm. Thị trường trái phiếu đã tăng 19% so với cùng kỳ năm trước, do trái phiếu doanh nghiệp tăng hơn gấp đôi trong cùng kỳ. Trái phiếu bằng đồng nội tệ trên thị trường bao gồm 82,1% trái phiếu chính phủ và 17,9% trái phiếu doanh nghiệp.

Một lượng lớn trái phiếu đến hạn và phát hành trái phiếu thấp hơn khiến cho trái phiếu chính phủ giảm 1,1% so với quý trước, xuống còn 58,3 tỉ USD vào cuối tháng 3. Tăng trưởng trái phiếu doanh nghiệp chậm lại, đạt 3,3% so với quý trước và 154,9% so với cùng kỳ năm trước, với thị trường đạt 12,7 tỉ USD vào cuối quý.

Chuyên gia Kinh tế trưởng của ADB, ông Yasuyuki Sawada, nhận định: “Sự không chắc chắn kéo dài xung quanh đại dịch COVID-19 và áp lực lạm phát trước mắt đã tác động tiêu cực tới các thị trường trái phiếu mới nổi của Đông Á, dẫn đến sự biến động và hoạt động trái chiều trên các thị trường tài chính và cổ phiếu của khu vực. Các thị trường trái phiếu bền vững đang mở rộng nhanh chóng của khu vực, được củng cố bởi sự quan tâm ngày càng tăng tới việc phục hồi xanh và đồng đều cũng như các chính sách công tạo thuận lợi, sẽ là chìa khóa cho những nỗ lực của khu vực nhằm tái thiết thông minh hơn sau đại dịch”.

Khu vực Đông Á mới nổi bao gồm Trung Quốc; Hồng Kông, Trung Quốc; In-đô-nê-xi-a; Hàn Quốc; Ma-lai-xi-a; Phi-líp-pin; Xinh-ga-po; Thái Lan và Việt Nam.

Đại dịch COVID-19 vẫn là nguy cơ lớn nhất đối với các thị trường trái phiếu khu vực. Những đợt bùng phát mới, sự xuất hiện của các biến chủng vi-rút mới, và quá trình triển khai vắc-xin chậm hơn dự kiến tại một số thị trường có thể tác động xấu tới hoạt động kinh tế. Những quan ngại rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể thắt chặt chính sách tiền tệ để ứng phó áp lực lạm phát gia tăng đang ảnh hưởng tới các điều kiện tài chính trong khu vực.

Quy mô thị trường trái phiếu Đông Á mới nổi tương đương 96,4% tổng sản lượng kinh tế của khu vực trong quý 1 năm 2021. Trái phiếu chính phủ trong thị trường Đông Á mới nổi đạt tổng giá trị 12,6 nghìn tỉ USD vào cuối tháng 3, chiếm 61,8% tổng lượng trái phiếu của khu vực. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vẫn là thị trường trái phiếu lớn nhất của khu vực, chiếm 77,8% tổng lượng trái phiếu đang lưu hành của Đông Á mới nổi.

Các thị trường trái phiếu bền vững trong khu vực ASEAN cùng với Trung Quốc, Hồng Kông, Trung Quốc; Nhật Bản và Hàn Quốc đã đạt tổng giá trị 301,3 tỉ USD vào cuối quý 1, tăng 13,2% so với quý trước và 44,5% so với cùng kỳ năm trước. Thị trường của khu vực hiện đang chiếm khoảng 20% thị trường trái phiếu bền vững toàn cầu, khiến nơi đây trở thành thị trường lớn thứ hai chỉ sau Châu Âu.

Ấn bản mới nhất của báo cáo Giám sát Trái phiếu Châu Á có một chương chủ đề về quản trị tài chính bền vững và làm thế nào để hướng các hệ thống tài chính và khuôn khổ đầu tư theo hướng đạt được các Mục tiêu Phát triển bền vững. Báo cáo cũng bao gồm hai khung thảo luận xem xét cách thức một số thị trường trong khu vực có thể sử dụng sukuk (trái phiếu Hồi giáo) để tài trợ cho các khoản đầu tư xanh, cũng như làm sao để những tiến bộ công nghệ như tài chính kỹ thuật số có thể tạo thuận lợi cho các khoản đầu tư bền vững vào công cuộc phục hồi xanh và đồng đều.

ADB cam kết đạt tới một khu vực Châu Á và Thái Bình Dương thịnh vượng, đồng đều, thích ứng và bền vững, trong khi duy trì nỗ lực xóa nghèo cùng cực. Được thành lập năm 1966, ADB thuộc sở hữu của 68 thành viên, trong đó có 49 thành viên trong khu vực.

Hải Anh

Đưa lãi suất tiền gửi về 0%: Một đề xuất tưởng tượng trong phòng máy lạnh?Đưa lãi suất tiền gửi về 0%: Một đề xuất tưởng tượng trong phòng máy lạnh?
Chứng khoán gay cấn như Chứng khoán gay cấn như "đánh trận", được nhà, mất xe trong gang tấc

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,000 151,000
Hà Nội - PNJ 148,000 151,000
Đà Nẵng - PNJ 148,000 151,000
Miền Tây - PNJ 148,000 151,000
Tây Nguyên - PNJ 148,000 151,000
Đông Nam Bộ - PNJ 148,000 151,000
Cập nhật: 20/10/2025 21:45
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,050 ▲350K 15,150 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 15,050 ▲360K 15,150 ▲60K
Miếng SJC Thái Bình 15,050 ▲350K 15,150 ▲15150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 15,050 ▲350K 15,150 ▲15150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 15,050 ▲250K 15,150 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 15,050 ▲250K 15,150 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,950 ▲150K ▼15100K
NL 99.99 14,950 ▼15100K
Trang sức 99.9 14,940 ▼10K 15,140 ▲40K
Trang sức 99.99 14,950 15,150 ▲50K
Cập nhật: 20/10/2025 21:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,505 ▲10K 15,152 ▲50K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,505 ▲10K 15,153 ▲50K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,502
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,503
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,462 ▲5K 1,492 ▲5K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 143,223 ▲495K 147,723 ▲495K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,561 ▲375K 112,061 ▲375K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 94,116 ▲340K 101,616 ▲340K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,671 ▲305K 91,171 ▲305K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,642 ▲291K 87,142 ▲291K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,873 ▲209K 62,373 ▲209K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,505 ▲10K 1,515 ▲1364K
Cập nhật: 20/10/2025 21:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16579 16848 17419
CAD 18246 18522 19132
CHF 32585 32969 33601
CNY 0 3470 3830
EUR 30093 30366 31388
GBP 34579 34972 35899
HKD 0 3260 3462
JPY 168 172 178
KRW 0 17 19
NZD 0 14788 15371
SGD 19812 20094 20618
THB 721 784 837
USD (1,2) 26082 0 0
USD (5,10,20) 26123 0 0
USD (50,100) 26151 26171 26356
Cập nhật: 20/10/2025 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,156 26,156 26,356
USD(1-2-5) 25,110 - -
USD(10-20) 25,110 - -
EUR 30,331 30,355 31,480
JPY 171.67 171.98 179.02
GBP 34,950 35,045 35,841
AUD 16,885 16,946 17,378
CAD 18,493 18,552 19,065
CHF 32,890 32,992 33,653
SGD 19,984 20,046 20,646
CNY - 3,652 3,746
HKD 3,342 3,352 3,432
KRW 17.16 17.9 19.21
THB 769.15 778.65 827.9
NZD 14,825 14,963 15,299
SEK - 2,755 2,837
DKK - 4,057 4,171
NOK - 2,585 2,658
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,845.91 - 6,551.98
TWD 779.58 - 937.92
SAR - 6,928.19 7,246.83
KWD - 84,056 88,816
Cập nhật: 20/10/2025 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,175 26,176 26,356
EUR 30,133 30,254 31,337
GBP 34,764 34,904 35,842
HKD 3,325 3,338 3,441
CHF 32,622 32,753 33,642
JPY 170.67 171.36 178.22
AUD 16,809 16,877 17,399
SGD 19,994 20,074 20,589
THB 782 785 818
CAD 18,462 18,536 19,045
NZD 14,875 15,352
KRW 17.79 19.45
Cập nhật: 20/10/2025 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26164 26164 26356
AUD 16750 16850 17458
CAD 18420 18520 19124
CHF 32816 32846 33729
CNY 0 3663.4 0
CZK 0 1210 0
DKK 0 4100 0
EUR 30264 30294 31317
GBP 34859 34909 36012
HKD 0 3390 0
JPY 171.18 171.68 178.73
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.161 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2600 0
NZD 0 14892 0
PHP 0 423 0
SEK 0 2773 0
SGD 19964 20094 20825
THB 0 749.9 0
TWD 0 855 0
SJC 9999 15050000 15050000 15150000
SBJ 14500000 14500000 15150000
Cập nhật: 20/10/2025 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,135 26,221 26,356
USD20 26,171 26,221 26,356
USD1 26,171 26,221 26,356
AUD 16,822 16,922 18,032
EUR 30,429 30,429 31,744
CAD 18,384 18,484 19,791
SGD 20,048 20,198 21,120
JPY 171.92 173.42 178.03
GBP 34,963 35,113 35,879
XAU 15,048,000 0 15,152,000
CNY 0 3,548 0
THB 0 784 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/10/2025 21:45