Lo châu Âu cấm vận, giá dầu đang đua cao trở lại

10:49 | 22/03/2022

5,530 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Giá dầu đang đua cao trở lại và dự kiến sẽ chứng kiến nhiều đợt tăng đột biến cũng như giảm đột ngột khi thế giới đối phó với tình trạng thiếu hụt nguồn cung tiềm năng.

Với người tiêu dùng, điều này đồng nghĩa thời kỳ giá xăng đắt đỏ sẽ kéo dài hơn. Còn với các nền kinh tế, điều đó có nghĩa là lạm phát tăng cao. Bên cạnh đánh trực tiếp vào túi tiền của người tiêu dùng, giá xăng tăng còn khiến chi phí của các doanh nghiệp phụ thuộc vào xăng như hàng không, vận tải, hóa chất, sản xuất nhựa... cao hơn.

Lo châu Âu cấm vận, giá dầu đang đua cao trở lại - 1
Giá dầu tăng cao đồng nghĩa thời kỳ giá xăng đắt đỏ sẽ kéo dài hơn (Ảnh: Reuters).

Giá có thể tăng đột biến hoặc giảm đột ngột

Chiến sự tại Ukraine diễn ra vào thời điểm giá dầu đang tăng cao do nguồn cung khan hiếm và nhu cầu đang tăng lên khi các nền kinh tế mở cửa sau đại dịch. Giờ đây, việc thiếu hụt 5 triệu thùng/ngày dầu xuất khẩu từ Nga đang gia tăng áp lực lên giá.

Hôm qua, giá dầu đã tăng hơn 7% khi Liên minh châu Âu (EU) xem xét tham gia cùng Mỹ cấm vận dầu mỏ của Nga và sau khi phiến quân Houthi tấn công vào các cơ sở sản xuất dầu của tập đoàn dầu khí Saudi Aramco.

Lúc 7h20 sáng nay, giá dầu WTI của Mỹ được giao dịch ở mức 114,3 USD/thùng, tăng gần 2% so với chốt phiên hôm qua. Trong khi đó, giá dầu Brent lên mức 118 USD/thùng, tăng 2,25%.

Các nhà phân tích cũng thừa nhận rằng giá dầu có thể giảm đột ngột nếu tình hình Ukraine "hạ nhiệt".

Ông Daniel Pickering, Giám đốc đầu tư tại Pickering Energy Partners, cho rằng phạm vi dao động của giá trong khoảng 2 tuần rất rộng. Giá dầu đã đi từ mức 90 USD/thùng lên 130 USD/thùng trong một tháng và từ mức 125 USD/thùng về 95 USD/thùng chỉ trong một tuần. Đó sẽ là mức biến động bình thường. Mức biến động 10 USD hay 10% không là gì.

Thực tế thị trường đã tăng trở lại khi các nhà giao dịch lo sợ nguồn cung thắt chặt hơn. Ông Pickering cho rằng ngay lúc này đó là nỗi sợ hãi về các hành động xung quanh các thùng dầu của Nga và điều đó sẽ tạo ra nhiều biến động. Giá dầu có thể trở lại mốc 130 USD/thùng nếu dầu Nga thực sự bị loại khỏi thị trường.

Ông Pickering ước tính có 2 - 3 triệu thùng/ngày dầu của Nga bị đóng băng trên thị trường mà không có người mua ngay. Trung Quốc và Ấn Độ đang tiếp tục mua dầu của Nga. Với mức chiết khấu cao, ông tin rằng, theo thời gian những người mua khác sẽ sẵn sàng mua.

Ông Francisco Blanch, Trưởng bộ phận hàng hóa và phái sinh của Bank of America, cho rằng thị trường Mỹ đang thiết lập cho đợt tăng giá định kỳ.

Ông cho biết trong một lưu ý rằng tăng trưởng sản xuất hạn chế và nhu cầu lọc dầu và xuất khẩu tăng mạnh đang khiến hàng tồn kho sụt giảm tại kho dự trữ dầu thô Cushing ở Oklahoma (Mỹ). Việc nguồn dự trữ eo hẹp có thể khiến thị trường giao dịch kỳ hạn biến động nhiều hơn, vì người nắm hợp đồng kỳ hạn phải giao hàng thực tế khi hợp đồng đến hạn.

Sự hội tụ này đã khiến giá dầu WTI về âm vào tháng 4/2020 khi các nhà đầu tư buộc phải thanh lý hợp đồng với giá âm trong thời kỳ nhu cầu xuống cực thấp. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, theo ông Blanch, nguồn cung khan hiếm có thể khiến giá dầu tăng đột biến trong thời gian hợp đồng đến hạn khi các nhà đầu tư đổ xô mua vào.

Lo châu Âu cấm vận, giá dầu đang đua cao trở lại - 2
Việc nguồn dự trữ eo hẹp có thể khiến thị trường giao dịch kỳ hạn biến động nhiều hơn (Ảnh: Reuters).

Châu Âu sẽ cấm vận dầu của Nga?

Liên minh châu Âu dự kiến sẽ thảo luận về việc cấm vận dầu thô của Nga. Tuy nhiên, ý định này đang có sự bất đồng giữa các thành viên trong khối.

Ông Dan Yergin, Phó Chủ tịch IHS Markit, cho rằng, viễn cảnh các lệnh trừng phạt hay cấm vận dầu của Nga ở châu Âu đang thực sự gia tăng và áp lực sẽ tăng lên trong tuần này.

"Nhưng nó cần phải được thực hiện một cách cẩn thận và có sự tham vấn kỹ lưỡng của ngành nhằm giảm thiểu sự gián đoạn này", ông Yergin nói.

Bà Helima Croft, người đứng đầu hàng hóa chiến lược toàn cầu tại RBC, cho biết bà hoài nghi châu Âu sẽ ra lệnh cấm vận dầu mỏ của Nga. Bởi châu Âu là thị trường xuất khẩu lớn nhất về dầu và khí đốt tự nhiên của Nga.

"Tôi vẫn nghĩ rằng Đức sẽ ngăn chặn bất kỳ nỗ lực nào của EU nhằm áp đặt các biện pháp trừng phạt năng lượng, vì vậy huyết mạch kinh tế cung cấp cho ông Putin nhờ bán dầu và khí đốt sẽ vẫn tồn tại", bà Croft nói.

Thiếu hụt nguồn cung

Các cơ sở dầu mỏ của Saudi Arabia đã bị phiến quân Houthi tấn công hôm cuối tuần. Các cuộc tấn công bằng tên lửa và máy bay không người lái đã nhằm vào một nhà máy khử muối, một nhà máy khí đốt tự nhiên, một nhà máy điện và một cơ sở khí đốt. Tuy nhiên, Aramco cho biết nguồn cung không bị ảnh hưởng.

Ông John Kilduff, đối tác với Again Capital, cho rằng người Ả Rập đang lấy cớ bị Houthi tấn công để miễn trừ trách nhiệm cung cấp thêm dầu cho thị trường. "Việc Saudi Arabia từ chối bổ sung nguồn cung đang làm trầm trọng thêm vấn đề giá cả đối với người tiêu dùng trên toàn thế giới", ông nói.

Saudi Arabia là thành viên hàng đầu của OPEC+, bao gồm nhóm OPEC và Nga. Nhóm này đã thống nhất bơm thêm mỗi tháng 400.000 thùng/ngày đến hết tháng 6. Tại cuộc họp gần nhất, OPEC+ không đưa ra tín hiệu tăng cung nào.

Saudi Arabia đã im lặng về cuộc chiến và không hứa sẽ bổ sung thêm bất kỳ loại dầu nào cho thị trường ngoài kế hoạch trước đó. Tuần trước, Thủ tướng Anh Boris Johnson đã đến thăm vương quốc này. Dự kiến sắp tới Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken cũng sẽ đến thăm nước này.

"Saudi Arabia vẫn kiên quyết với công thức bơm nhỏ giọt của OPEC+. Thủ tướng Anh Boris Johnson đã trở về London mà không lay chuyển được tình hình. Và giờ đây với việc phiến quân Houthi tấn công vào cơ sở hạ tầng năng lượng, vương quốc này đang cảnh báo họ có thể không duy trì mức sản xuất như hiện tại", bà Croft nói.

Ông Yergin cũng cho rằng Saudi Arabia cũng khó mà rời bỏ được quan hệ với OPEC+. "Quan hệ đối tác OPEC+ thực sự là một thỏa thuận của Saudi Arabia và Nga và trước khi tất cả những điều này xảy ra, thỏa thuận đó là cơ sở để ổn định thị trường", ông nói và cho biết thêm: "Kể từ khi giá dầu đi xuống vào năm 2014, mục tiêu của nhóm là đưa Nga vào một thỏa thuận hơn là để Nga đứng ngoài với tư cách là đối thủ cạnh tranh. Mối quan hệ này ngày càng sâu sắc và họ đã trở thành đối tác chiến lược".

"Nếu OPEC không bơm thêm dầu, thị trường sẽ eo hẹp hơn", ông Pickering nói và cho rằng OPEC có thể sẽ bơm thêm nhưng không nhất thiết với mức như châu Âu và Mỹ muốn.

Các nguồn cung khác

Mỹ đang tìm kiếm các nguồn cung cấp khác, bao gồm cả các thùng dầu đang bị trừng phạt của Venezuela.

Thị trường cũng mong đợi một thỏa thuận với Iran để cho phép hơn 1 triệu thùng/ngày của nước này vào thị trường, đổi lại nước này sẽ chấm dứt chương trình hạt nhân. Nhưng những cuộc đàm phán đó đã bế tắc trong những tuần gần đây.

Các nhà sản xuất của Mỹ cũng có thể sản xuất nhiều dầu hơn, nhưng đóng góp của họ dự kiến không lớn hơn nhiều so với mức 900.000 thùng đến 1 triệu thùng được kỳ vọng bổ sung mỗi ngày trong năm nay.

Nhà Trắng đã triệu tập một số giám đốc điều hành trong ngành dầu mỏ tại một cuộc họp diễn ra hôm qua.

Tuy nhiên, ông Pickering không cho rằng ngành này bắt buộc phải hành động. "Chúng ta cần xem liệu chính phủ có cung cấp củ cà rốt nào hay không. Họ chắc chắn đã đưa ra cây gậy nhưng tôi cho rằng cây gậy sẽ không hoạt động".

Theo Dân trí

Giá dầu tăng hơn 6 USD khi EU xem xét lệnh cấm vận dầu mỏ của NgaGiá dầu tăng hơn 6 USD khi EU xem xét lệnh cấm vận dầu mỏ của Nga
EU chia rẽ vì vấn đề cấm vận dầu Nga, Moscow cảnh báo hậu quảEU chia rẽ vì vấn đề cấm vận dầu Nga, Moscow cảnh báo hậu quả
Giá xăng dầu hôm nay 22/3/2022 ghi nhận cảnh báo giá dầu lên tới 300 USD/thùngGiá xăng dầu hôm nay 22/3/2022 ghi nhận cảnh báo giá dầu lên tới 300 USD/thùng
Giá vàng hôm nay 22/3/2022 quay đầu tăng mạnhGiá vàng hôm nay 22/3/2022 quay đầu tăng mạnh
Xăng dầu đồng loạt giảm mạnh đến 1.700 đồng/lítXăng dầu đồng loạt giảm mạnh đến 1.700 đồng/lít
Dự báo giá dầu: Giá dầu tăng trong tuần tớiDự báo giá dầu: Giá dầu tăng trong tuần tới

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,000 ▲300K 118,000 ▲300K
AVPL/SJC HCM 116,000 ▲300K 118,000 ▲300K
AVPL/SJC ĐN 116,000 ▲300K 118,000 ▲300K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,730 ▼120K 11,250 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,720 ▼120K 11,240 ▲50K
Cập nhật: 10/06/2025 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.500 114.000
TPHCM - SJC 116.000 ▲300K 118.000 ▲300K
Hà Nội - PNJ 111.500 114.000
Hà Nội - SJC 116.000 ▲300K 118.000 ▲300K
Đà Nẵng - PNJ 111.500 114.000
Đà Nẵng - SJC 116.000 ▲300K 118.000 ▲300K
Miền Tây - PNJ 111.500 114.000
Miền Tây - SJC 116.000 ▲300K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.500 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲300K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.500
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲300K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.500 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.500 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.000 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.890 113.390
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.190 112.690
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.970 112.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.780 85.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.050 66.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.870 47.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.570 104.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.890 69.390
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.430 73.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.830 77.330
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.210 42.710
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.110 37.610
Cập nhật: 10/06/2025 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,040 ▲100K 11,440 ▲80K
Trang sức 99.9 11,030 ▲100K 11,430 ▲80K
NL 99.99 10,705 ▲15K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,705 ▲15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,250 ▲100K 11,500 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,250 ▲100K 11,500 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,250 ▲100K 11,500 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 11,600 ▲30K 11,800 ▲30K
Miếng SJC Nghệ An 11,600 ▲30K 11,800 ▲30K
Miếng SJC Hà Nội 11,600 ▲30K 11,800 ▲30K
Cập nhật: 10/06/2025 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16384 16652 17230
CAD 18441 18718 19333
CHF 31015 31393 32042
CNY 0 3530 3670
EUR 29048 29318 30342
GBP 34274 34665 35591
HKD 0 3187 3389
JPY 173 177 183
KRW 0 18 19
NZD 0 15397 15984
SGD 19676 19958 20484
THB 712 775 828
USD (1,2) 25775 0 0
USD (5,10,20) 25814 0 0
USD (50,100) 25842 25876 26216
Cập nhật: 10/06/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,857 25,857 26,217
USD(1-2-5) 24,823 - -
USD(10-20) 24,823 - -
GBP 34,750 34,844 35,714
HKD 3,259 3,268 3,367
CHF 31,316 31,414 32,201
JPY 176.96 177.27 184.79
THB 759.9 769.28 823.31
AUD 16,690 16,750 17,216
CAD 18,687 18,747 19,298
SGD 19,858 19,920 20,587
SEK - 2,664 2,758
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,915 4,050
NOK - 2,540 2,628
CNY - 3,575 3,672
RUB - - -
NZD 15,396 15,539 15,993
KRW 17.62 18.38 19.84
EUR 29,283 29,307 30,518
TWD 785.87 - 950.79
MYR 5,747.47 - 6,481.93
SAR - 6,825.84 7,184.43
KWD - 82,708 87,939
XAU - - -
Cập nhật: 10/06/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,860 25,870 26,210
EUR 29,167 29,284 30,397
GBP 34,682 34,821 35,816
HKD 3,253 3,266 3,371
CHF 31,134 31,259 32,167
JPY 175.93 176.64 183.96
AUD 16,657 16,724 17,258
SGD 19,908 19,988 20,534
THB 777 780 815
CAD 18,677 18,752 19,278
NZD 15,521 16,029
KRW 18.38 20.26
Cập nhật: 10/06/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25853 25853 26216
AUD 16603 16703 17270
CAD 18638 18738 19291
CHF 31286 31316 32201
CNY 0 3587.3 0
CZK 0 1150 0
DKK 0 3978 0
EUR 29359 29459 30234
GBP 34710 34760 35873
HKD 0 3320 0
JPY 176.67 177.67 184.18
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6350 0
NOK 0 2580 0
NZD 0 15537 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2706 0
SGD 19852 19982 20712
THB 0 741.6 0
TWD 0 867 0
XAU 11300000 11300000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11800000
Cập nhật: 10/06/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,860 25,910 26,160
USD20 25,860 25,910 26,160
USD1 25,860 25,910 26,160
AUD 16,648 16,798 17,861
EUR 29,400 29,550 30,850
CAD 18,586 18,686 20,001
SGD 19,930 20,080 20,550
JPY 177.16 178.66 183.28
GBP 34,785 34,935 35,708
XAU 11,568,000 0 11,772,000
CNY 0 3,472 0
THB 0 777 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 10/06/2025 15:00