Mây đen bao phủ ngành sản xuất tại các nền kinh tế lớn nhất thế giới

11:08 | 17/06/2023

135 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Hoạt động sản xuất được coi là xương sống của ngành kinh tế tại nhiều quốc gia. Thời gian qua, lĩnh vực sản xuất tại nhiều nền kinh tế lớn lại bị thu hẹp, suy giảm. Các nhà sản xuất đang phải chật vật ứng phó với tình trạng nhu cầu yếu khi triển vọng kinh tế toàn cầu vẫn còn u ám.

Khó khăn bủa vây ngành sản xuất

Theo khảo sát gần đây của S&P Global, các nhà máy tại Mỹ và khu vực đồng euro (Eurozone) đều ghi nhận số đơn hàng mới bị giảm trong tháng 5. Hiện tại, họ vẫn đang phải giải quyết đơn hàng tồn và phát sinh từ thời kỳ đầu đại dịch. Dù vậy, hiện chưa rõ số đơn hàng này có thể giúp họ tiếp tục duy trì sản xuất trong bao lâu.

Những số liệu thu thập được từ S&P Global cũng cho thấy sản xuất của Mỹ đã giảm mạnh trong tháng 5. Cuộc khảo sát tương tự của Viện Quản lý Nguồn cung Mỹ cũng cho thấy hoạt động ngành này thu hẹp tháng thứ 7 liên tiếp và mức giảm còn mạnh hơn tháng trước đó.

Dữ liệu từ Chính phủ Mỹ cho thấy đây có thể là điểm khởi đầu cho chu kỳ giảm tốc kéo dài. Bộ Thương mại Mỹ cho biết số đơn hàng nhà máy đã giảm tháng thứ 3 liên tiếp, các đơn hàng nhà máy đã giảm 4 trong 6 tháng gần đây.

Mây đen bao phủ ngành sản xuất tại các nền kinh tế lớn nhất thế giới - 1
Các nhà máy tại Mỹ và khu vực đồng euro đều ghi nhận số đơn hàng mới giảm mạnh trong tháng 5 (Ảnh: IT).

Với các nhà sản xuất ở khu vực Eurozone, số đơn hàng mới và đơn hàng tồn đều giảm trong tháng 5. Sản lượng công nghiệp tại khu vực này cũng giảm mạnh trong tháng 3 và Ireland có đà giảm mạnh nhất.

Tình hình ở Trung Quốc cũng không khả quan hơn. Dù ngành sản xuất tại công xưởng lớn nhất thế giới đã cải thiện trong tháng 5, nhưng xuất khẩu của nước này lại giảm 7,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này cho thấy nhu cầu hàng Trung Quốc giảm sút, trong bối cảnh nước này đối mặt với nhiều rắc rối khác, như tỷ lệ thất nghiệp tăng và bất động sản lao dốc.

Trên toàn cầu, chỉ số sản xuất JPMorgan Global Manufacturing PMI cũng cho thấy niềm tin của các hãng sản xuất hiện xuống thấp nhất trong nửa năm trở lại đây.

Nhu cầu suy yếu

Người tiêu dùng trên toàn cầu giảm chi tiêu cho ngành dịch vụ trong năm 2020 vì đại dịch Covid-19. Điều này khiến sức mua hàng hóa bùng nổ và giúp đơn hàng của các hãng sản xuất tăng lên nhanh chóng.

Năm 2020, khi đại dịch xuất hiện, người tiêu dùng trên toàn cầu giảm chi tiêu cho ngành dịch vụ, khiến sức mua hàng hóa bùng nổ. Việc này giúp đơn hàng của các hãng sản xuất tăng lên nhanh chóng.

Nhưng sau đó, khi các quốc gia gỡ bỏ biện pháp kiểm soát dịch, người dân cũng thay đổi thói quen chi tiêu. Ở Mỹ và châu Âu, lĩnh vực nhà hàng, khách sạn ghi nhận lượng du khách kỷ lục trong mùa hè. Việc chuyển hướng chi tiêu sang dịch vụ đã khiến các hãng sản xuất gặp rắc rối.

Gần đây, việc Trung Quốc mở cửa trở lại sau nhiều năm phong tỏa ngặt nghèo được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) kỳ vọng sẽ "tạo cú huých" cho kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, kinh tế nước này hồi phục đáng thất vọng và làm tiêu tan kỳ vọng sẽ thúc đẩy kinh tế toàn cầu.

Mây đen bao phủ ngành sản xuất tại các nền kinh tế lớn nhất thế giới - 2
Nhu cầu hàng hóa trên toàn cầu đang yếu, do người dân ngày càng chi nhiều cho dịch vụ, thay vì hàng hóa (Ảnh: Getty).

Các ngân hàng trung ương cũng đang tiếp tục cuộc chiến chống lạm phát, bằng cách nâng lãi suất.

Lãi suất cao kìm hãm nhu cầu chi tiêu, đồng thời khiến các ngân hàng siết tiêu chuẩn cho vay. Đây chính là trường hợp của Mỹ và Eurozone, đặc biệt sau vụ sụp đổ của một loạt ngân hàng chỉ trong vài tháng. Các điều kiện tài chính bị thắt chặt ở Eurozone, thậm chí còn mạnh hơn sau thương vụ thâu tóm Credit Suisse của UBS.

Trong năm qua, Fed đã nâng lãi suất 10 lần liên tiếp, trong khi Ngân hàng trung ương châu Âu cũng nâng lãi suất quyết liệt trong cuộc chiến chống lạm phát.

Người dân thường có xu hướng vay để mua hàng hóa lâu bền như xe hơi, đồ gia dụng. Vì thế, khi tín dụng bị thắt chặt, các nhà sản xuất sẽ chịu sức ép. Và nếu nhu cầu hàng hóa tiếp tục yếu đi và số đơn hàng tồn giảm mạnh thì các nhà máy toàn cầu sẽ tiến hành cắt giảm nhân sự.

Dấu hiệu suy thoái tại các nền kinh tế lớn

Các chuyên gia kinh tế tại Fed dự báo Mỹ suy thoái nhẹ trong năm nay, dù thị trường lao động của nước này vẫn ổn định. Trong khi đó, dữ liệu điều chỉnh vừa công bố trong tuần trước cho thấy khu vực Eurozone đã rơi vào suy thoái kỹ thuật, khi giảm 0,1% trong 2 quý liên tiếp.

Các hộ gia đình trên toàn khu vực đồng euro đã phải chịu áp lực từ chi phí sinh hoạt tăng cao từ khi chiến sự Nga - Ukraine nổ ra khiến giá nhiên liệu tăng mạnh, đẩy tỉ lệ lạm phát lên mức cao nhất kể từ khi thành lập khối đồng tiền chung.

Với việc người tiêu dùng chịu áp lực từ giá năng lượng và thực phẩm cao hơn, tiêu dùng của hộ gia đình đã kéo GDP trên toàn khu vực đồng euro giảm 0,1 điểm phần trăm, tiếp nối mức giảm 1 điểm phần trăm trong quý trước.

Chia sẻ với Reuters, bà Lydia Brissy, Giám đốc Nghiên cứu thị trường châu Âu, cho rằng: "Hoạt động đầu tư sẽ vẫn trầm lắng ở châu Âu cho đến nửa cuối năm, khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi dần. Khối lượng đầu tư bất động sản ở châu Âu vào năm 2023 sẽ nằm trong khoảng từ 330 tỷ - 340 tỷ euro, giảm 17-20% so với cùng kỳ năm ngoái".

Triển vọng kinh tế của châu Âu theo đánh giá của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là còn nhiều khó khăn.

Ông Pierre Oliver Gourinchas, chuyên gia kinh tế trưởng, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), cho biết: "Chúng ta đang chứng kiến sự suy giảm tăng trưởng toàn cầu, không chỉ với các nền kinh tế tiên tiến mà với cả các nền kinh tế đang phát triển. Những thị trường mới nổi tăng trưởng nhanh hơn các nền kinh tế tiên tiến, nhưng triển vọng tăng trưởng trong 5 năm tới không được như 10 năm trước".

Mây đen bao phủ ngành sản xuất tại các nền kinh tế lớn nhất thế giới - 3
Hoạt động đầu tư sẽ vẫn trầm lắng ở châu Âu cho đến nửa cuối năm (Ảnh: Bloomberg).

Một số nền kinh tế thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu đang suy thoái hoặc gần suy thoái đã ghi nhận các quý suy giảm liên tiếp. Pháp ghi nhận mức tăng trưởng gần bằng 0, với mức tăng trưởng đi ngang trong quý IV và mức tăng khiêm tốn 0,2% trong 3 tháng đầu năm 2023.

Đức, nền kinh tế lớn nhất châu Âu, cũng đang rơi vào suy thoái với mức sản lượng kinh tế giảm sâu. Tăng trưởng kinh tế của nước này giảm 0,3% trong quý 1, sau khi giảm 0,5% vào quý cuối năm 2022.

Trong khi đó, bức tranh sản xuất ở châu Á cũng không sáng sủa hơn. Chỉ số PMI tháng 5/2023 của Hàn Quốc lần đầu tiên rơi vào giai đoạn giảm dài nhất trong 14 năm do nhu cầu toàn cầu chậm lại gây ảnh hưởng đến sản lượng và đơn đặt hàng.

Nền kinh tế Trung Quốc cũng chỉ tăng 4,5% trong quý đầu năm nay, phần lớn là kết quả của việc mở cửa lại kinh tế và người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn cho nhà hàng và du lịch. Nhưng những tín hiệu gần đây cho thấy đà phục hồi đang giảm nhanh.

Lạm phát tiêu dùng rất thấp của Trung Quốc cùng giá sản xuất giảm trong tháng 5 tiếp tục làm dấy lên nhiều lo ngại về rủi ro giảm phát và nhu cầu thấp. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 0,2% trong tháng 5, con số này thấp hơn so với mức dự báo là 0,3%. Trong khi đó, chỉ số giá sản xuất (PPI), phản ánh sự thay đổi giá hàng hóa được bán bởi các nhà sản xuất, giảm 4,6% trong tháng 5, thấp hơn con số kỳ vọng.

Hàng loạt chỉ số kinh tế trong thời gian gần đây đã cho thấy đà phục hồi kinh tế của Trung Quốc đang bắt đầu chậm lại, trong đó sản lượng công nghiệp, hoạt động sản xuất và tăng trưởng tín dụng đều giảm.

Không chỉ vậy, 2 gã khổng lồ thương mại điện tử là Alibaba và Jingdong vừa công bố báo cáo doanh thu ảm đạm trong quý đầu năm. Chỉ số chứng khoán Hang Seng của các doanh nghiệp Trung Quốc giảm 5,2% từ đầu năm đến nay, trong khi đồng nhân dân tệ đang yếu đi so với đồng USD.

Động lực kinh tế chậm lại

Các nhà sản xuất trên thế giới duy trì lập trường thận trọng khi nói về triển vọng kinh doanh những tháng tới. Hãng gia công hàng điện tử Foxconn dự báo doanh thu từ mảng thiết bị mạng và đám mây năm nay đi ngang. Trong quý II, số liệu này còn bất ngờ đi xuống.

Monish Patolawala, Giám đốc Tài chính của gã khổng lồ sản xuất 3M tháng trước cho biết, mảng điện tử của họ chịu ảnh hưởng nặng nề từ việc nhu cầu hàng điện tử tiêu dùng sụt giảm. Hồi tháng 4, 3M thông báo kế hoạch sa thải 6.000 nhân viên trên toàn cầu.

Một khảo sát do Hiệp hội Các nhà Sản xuất Mỹ công bố tuần trước cho thấy chỉ 67% hãng sản xuất Mỹ lạc quan về tương lai công ty. Đây là tỷ lệ thấp nhất kể từ quý III/2020. Việc giữ chân người lao động có tay nghề, nền kinh tế nội địa suy yếu và môi trường kinh doanh không thuận lợi được liệt kê là những thách thức lớn nhất của nhóm doanh nghiệp này.

Bên cạnh các vấn đề như ở Mỹ, các doanh nghiệp của châu Âu còn phải đối mặt với nhiều khó khăn từ việc chi phí đầu vào tăng mạnh, hay tác động lớn hơn từ cuộc xung đột tại Ukraine. Các yếu tố này đang bủa vây, buộc các doanh nghiệp châu Âu phải thu hẹp quy mô hoạt động.

Khảo sát mới nhất của Ngân hàng trung ương châu Âu thực hiện cuối tháng 4 vừa qua cho thấy, nhu cầu vay vốn cho đầu tư sản xuất của các doanh nghiệp ở khu vực Eurozone trong quý I giảm 38%, trong khi các ngân hàng lại siết tín dụng đến 27%. Nhu cầu vay tiêu dùng cũng giảm đến 19%, còn vay mua nhà giảm 72%.

Chi phí năng lượng cao, lãi suất tăng và những căng thẳng khó lường từ chiến sự Nga - Ukraine đã khiến thu nhập trước thuế của BASF, Tập đoàn hóa chất hàng đầu của Đức dự kiến giảm 5,2 tỷ euro trong năm nay. Năm ngoái, thu nhập của BASF đã giảm 11,5% so với năm 2021, tương đương giảm trên 5 tỷ euro. Kinh doanh thua lỗ khiến BASF trong tháng 2 vừa qua phải tuyên bố cắt giảm 2.600 việc làm. Không chỉ có BASF, hãng sản xuất ô tô Ford của Mỹ cũng cắt giảm 3.800 việc làm ở châu Âu. Công ty thiết bị y tế Philips PHG của Hà Lan cắt giảm 6.000 việc làm.

Mây đen bao phủ ngành sản xuất tại các nền kinh tế lớn nhất thế giới - 4
Nhu cầu vay vốn cho đầu tư sản xuất của các doanh nghiệp giảm mạnh (Ảnh: SCMP).

Không chỉ vậy, theo CNBC, lợi nhuận của các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp ở Trung Quốc sụt giảm trong 4 tháng đầu năm nay, khi phải đối mặt với áp lực tỷ suất lợi nhuận và nhu cầu suy yếu giữa lúc sự phục hồi kinh tế đang chững lại.

Theo China Logistics Group, các dự báo thương mại toàn cầu từ WTO cho thấy khối lượng thương mại hàng hóa thế giới năm nay sẽ tăng 1,7%, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng 2,7% năm trước đó nên việc xuất khẩu hàng hóa đến các thị trường lớn của Trung Quốc như Mỹ, EU cũng sẽ khó khăn hơn nhiều khi nhu cầu giảm.

Khó khăn hiện đang là bức tranh chung bao phủ bức tranh của ngành sản xuất toàn cầu. Lãi suất tăng và chi phí cao khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động, trong khi nhu cầu yếu lại hạn chế khả năng tìm đầu ra cho sản phẩm.

Theo Dân trí

Tin tức kinh tế ngày 16/6: NHNN giảm lãi suất điều hành lần thứ tư liên tiếpTin tức kinh tế ngày 16/6: NHNN giảm lãi suất điều hành lần thứ tư liên tiếp
Các giải pháp lớn ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phátCác giải pháp lớn ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát
[E-Magazine] Hoạt động sản xuất duy trì đà tăng trưởng, Petrovietnam góp phần quan trọng giảm thiểu tác động tiêu cực đối với nền kinh tế[E-Magazine] Hoạt động sản xuất duy trì đà tăng trưởng, Petrovietnam góp phần quan trọng giảm thiểu tác động tiêu cực đối với nền kinh tế

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,800 ▲800K 118,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 116,800 ▲800K 118,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 116,800 ▲800K 118,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,800 ▲70K 11,250
Nguyên liệu 999 - HN 10,790 ▲70K 11,240
Cập nhật: 11/06/2025 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.000 114.800
TPHCM - SJC 116.800 ▲300K 118.800 ▲300K
Hà Nội - PNJ 112.000 114.800
Hà Nội - SJC 116.800 ▲300K 118.800 ▲300K
Đà Nẵng - PNJ 112.000 114.800
Đà Nẵng - SJC 116.800 ▲300K 118.800 ▲300K
Miền Tây - PNJ 112.000 114.800
Miền Tây - SJC 116.800 ▲300K 118.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.000 114.800
Giá vàng nữ trang - SJC 116.800 ▲300K 118.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.000
Giá vàng nữ trang - SJC 116.800 ▲300K 118.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.000 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.000 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.500 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.390 113.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.690 113.190
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.460 112.960
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.150 85.650
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.340 66.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.070 47.570
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.020 104.520
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.190 69.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.750 74.250
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.170 77.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.400 42.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.270 37.770
Cập nhật: 11/06/2025 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,110 ▲50K 11,540 ▲80K
Trang sức 99.9 11,100 ▲50K 11,530 ▲80K
NL 99.99 10,735 ▲25K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,735 ▲25K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,320 ▲50K 11,600 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,320 ▲50K 11,600 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,320 ▲50K 11,600 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 11,680 ▲30K 11,880 ▲30K
Miếng SJC Nghệ An 11,680 ▲30K 11,880 ▲30K
Miếng SJC Hà Nội 11,680 ▲30K 11,880 ▲30K
Cập nhật: 11/06/2025 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16413 16681 17256
AUD 16415 16683 17256
CAD 18488 18765 19382
CAD 18488 18765 19383
CHF 31016 31394 32040
CHF 31016 31394 32040
CNY 0 3530 3670
CNY 0 3530 3670
EUR 29128 29398 30426
EUR 29128 29398 30424
GBP 34315 34706 35641
GBP 34317 34708 35636
HKD 0 3185 3387
HKD 0 3185 3387
JPY 172 176 182
JPY 172 176 182
KRW 0 17 19
KRW 0 17 19
NZD 0 15384 15972
NZD 0 15384 15972
SGD 19690 19972 20495
SGD 19689 19970 20495
THB 714 777 830
THB 714 777 830
USD (1,2) 25763 0 0
USD (1,2) 25763 0 0
USD (5,10,20) 25802 0 0
USD (5,10,20) 25802 0 0
USD (50,100) 25830 25864 26205
USD (50,100) 25830 25864 26205
Cập nhật: 11/06/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,840 25,840 26,200
USD(1-2-5) 24,806 - -
USD(10-20) 24,806 - -
GBP 34,650 34,744 35,612
HKD 3,256 3,266 3,365
CHF 31,246 31,343 32,129
JPY 176.05 176.36 183.81
THB 760.56 769.95 823.78
AUD 16,687 16,747 17,210
CAD 18,712 18,772 19,326
SGD 19,839 19,901 20,568
SEK - 2,662 2,754
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,915 4,050
NOK - 2,527 2,615
CNY - 3,573 3,670
RUB - - -
NZD 15,348 15,491 15,940
KRW 17.5 18.25 19.7
EUR 29,285 29,308 30,520
TWD 785.3 - 950.11
MYR 5,736.92 - 6,473.13
SAR - 6,821.35 7,179.78
KWD - 82,694 87,954
XAU - - -
Cập nhật: 11/06/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,840 25,850 26,190
EUR 29,109 29,226 30,338
GBP 34,445 34,583 35,575
HKD 3,250 3,263 3,368
CHF 31,048 31,173 32,078
JPY 175.13 175.83 183.09
AUD 16,596 16,663 17,196
SGD 19,865 19,945 20,489
THB 776 779 813
CAD 18,680 18,755 19,281
NZD 15,434 15,941
KRW 18.14 19.98
Cập nhật: 11/06/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25845 25845 26210
AUD 16597 16697 17265
CAD 18676 18776 19327
CHF 31211 31241 32126
CNY 0 3586.5 0
CZK 0 1150 0
DKK 0 3978 0
EUR 29345 29445 30220
GBP 34558 34608 35719
HKD 0 3320 0
JPY 175.74 176.74 183.26
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6350 0
NOK 0 2580 0
NZD 0 15493 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2706 0
SGD 19838 19968 20696
THB 0 742.1 0
TWD 0 867 0
XAU 11450000 11450000 11870000
XBJ 10000000 10000000 11900000
Cập nhật: 11/06/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,840 25,890 26,150
USD20 25,840 25,890 26,150
USD1 25,840 25,890 26,150
AUD 16,643 16,793 17,859
EUR 29,390 29,540 30,816
CAD 18,613 18,713 20,029
SGD 19,915 20,065 20,596
JPY 176.24 177.74 182.41
GBP 34,667 34,817 35,599
XAU 11,678,000 0 11,882,000
CNY 0 3,470 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 11/06/2025 16:00