Một số hãng hàng không đồng ý giảm phí vận chuyển cho nông sản xuất khẩu

08:23 | 04/02/2022

89 lượt xem
|
Hiện đã có một số hãng hàng không đồng ý giảm chi phí vận chuyển cho nông sản xuất khẩu. Khi đề án xuất khẩu bền vững, giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam còn cao hơn nhiều so với hiện tại.

Nhân dịp đầu Xuân Nhâm Dần 2022, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) Lê Minh Hoan đã có cuộc trao đổi với báo chí về những kết quả mà ngành nông nghiệp đạt được trong năm 2021 và chia sẻ về những định hướng của ngành trong thời gian tới.

Năm 2021 là một năm rất khó khăn với nhiều ngành nghề, lĩnh vực, trong đó có nông nghiệp do ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, tuy nhiên, theo thống kê, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông - lâm- thủy sản vẫn đạt 46,8 tỷ USD, vượt xa mục tiêu 42 tỷ USD mà Chính phủ đưa ra. Vậy ông cho biết, những nỗ lực mà ngành đã vượt qua để có được kết quả này là như thế nào?

Một số hãng hàng không đồng ý giảm phí vận chuyển cho nông sản xuất khẩu - 1
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Minh Hoan trò chuyện với các cơ quan báo chí. (Ảnh: Văn Giang).

- Thời điểm tháng 8, tháng 9 của năm 2021, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, các tỉnh phía Nam phải thực hiện giãn cách xã hội dẫn đến các chuỗi ngành hàng bị đứt gãy. Do đó, việc sản xuất, vận chuyển, chế biến rất khó khăn khiến hệ thống phân phối bị ngưng trệ, thị trường bị đứt gãy. Lúc đó chúng tôi không hình dung nổi ngành nông nghiệp sẽ vượt qua như thế nào để hoàn thành chỉ tiêu, rồi lập được kỷ lục mới về xuất khẩu nông lâm thủy sản như vậy.

Kết quả này nói lên sự năng động, thích ứng, nhanh nhạy không chỉ trong bộ máy quản lý ngành nông nghiệp từ Trung ương đến địa phương mà còn thể hiện sự nỗ lực của doanh nghiệp và người dân, sự vào cuộc của hiệp hội ngành hàng nhằm kết nối, giữ vững thị trường.

Hàng chục triệu hộ nông dân trong bối cảnh chi phí đầu vào tăng, phải thực hiện giãn cách xã hội nhưng vẫn tạo ra được lượng nông sản lớn, giúp ngành nông nghiệp lấy được đà phục hồi nhanh, đảm bảo cung ứng đủ lương thực thực phẩm cho người dân trong thời điểm giãn cách xã hội, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.

Các tổ công tác đặc biệt của Bộ NN&PTNT đã có nhiều sáng kiến, giải pháp phù hợp, giúp người nông dân tiêu thụ sản phẩm, giúp các doanh nghiệp có nguyên liệu phục vụ chế biến.

Trong điều kiện mỗi địa phương có những quy định khác nhau trong phòng chống dịch thì vai trò kết nối, điều phối của các tổ công tác là rất quan trọng, từ đó mang lại kết quả chung, khẳng định vai trò trụ đỡ của ngành nông nghiệp.

Theo cách hiểu của tôi, thì mặc dù năm 2021 gặp rất nhiều khó khăn do dịch Covid-19, nhưng giá trị xuất khẩu của các mặt hàng nông - lâm - thủy sản vẫn vượt chỉ tiêu Chính phủ đưa ra cho ngành, nghĩa là người nông dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn "sống khỏe", Bộ trưởng nghĩ sao về điều này?

- Có lẽ, nỗi ám ảnh lớn nhất đối với ngành nông nghiệp trong năm qua, đó là sự đứt gãy chuỗi giá trị của các ngành hàng do các địa phương thực hiện lệnh giãn cách xã hội và phòng, chống dịch thiếu thống nhất. Thậm chí, nhiều địa phương có sự lúng túng do đại dịch chưa có tiền lệ.

Nỗi ám ảnh thứ hai là "cơn bão" giá vật tư đầu vào, từ phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y... đều tăng cao. Chính vì giá vật tư đầu vào tăng cao nên cả giá trị xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng. Chúng ta nhập khẩu chủ yếu là vật tư đầu vào trong sản xuất nông nghiệp.

Điều đó nói lên hai điều. Một là, chuỗi cung ứng của nền nông nghiệp thời gian qua chưa được chú trọng, vì chúng ta cắt khúc giữa sản xuất với thị trường.

Từ các cơ quan quản lý Trung ương đến địa phương chủ yếu là chỉ đạo sản xuất mà chưa quan tâm xúc tiến thị trường, chưa quan tâm đầu tư chuỗi logistics cả trong nước và nước ngoài.

Thứ hai, từ câu chuyện vật tư nông nghiệp tăng giá, chúng ta cũng thấy thế giới sau đại dịch rất "chông chênh". Do đứt gãy chuỗi giá trị toàn cầu, nền nông nghiệp sản lượng cao mà chi phí cũng cao.

Bởi vậy, chúng ta phải chấp nhận một thực tế rằng, giá trị gia tăng không tỷ lệ thuận với những con số tăng trưởng về giá trị xuất khẩu nông sản. Thu nhập của người nông dân tưởng chừng tăng mà không tăng tương xứng. Hai vấn đề lớn trên đã bộc lộ rõ qua bối cảnh dịch bệnh Covid-19.

Năm 2021, dịch Covid-19 như vậy mà ngành nông nghiệp vẫn xuất khẩu đạt 46,8 tỷ USD, vậy trong năm 2022, Bộ NN&PTNT đã đề ra mục tiêu xuất khẩu như thế nào, thưa Bộ trưởng?

Một số hãng hàng không đồng ý giảm phí vận chuyển cho nông sản xuất khẩu - 2
Bộ trưởng Lê Minh Hoan khảo sát việc sản xuất, tiêu thụ vải thiều trong thời điểm tỉnh Bắc Giang là "điểm nóng" của dịch Covid-19. (Ảnh: Văn Giang).

- Tôi đã đi nhiều nước châu Âu và nhận ra rằng, giá trị xuất khẩu của Việt Nam những năm qua tăng cao nhưng thiếu bền vững, còn mang tính tự phát.

Nghĩa là, chủ yếu do sự năng động của doanh nghiệp kết nối với thị trường nước ngoài để đưa hàng sang, chứ chúng ta chưa có đề án chiến lược xuất khẩu bền vững cho từng loại thị trường, kể cả cách thúc đẩy xuất khẩu vào từng thị trường.

Đa phần sản phẩm xuất khẩu của chúng ta sang thị trường nước ngoài là phục vụ người gốc Á sinh sống ở quốc gia đó, chứ chưa thâm nhập vững chắc vào các hệ thống phân phối lớn ở các quốc gia.

Bởi vậy, mặc dù giá trị xuất khẩu tăng nhanh, nhưng chưa có tính bền vững. Ví dụ, chúng ta thấy giá nhãn, vải thiều trên quầy kệ ở Nhật Bản và Mỹ có giá cao ngất ngưởng, chúng ta cảm thấy vui và tự hào. Nhưng thực ra, chi phí logistics đã chiếm phần lớn rồi.

Hiện, Bộ NN&PTNT đang tham vấn các đại sứ quán, thương vụ nước ngoài, trước mắt là khối EU và Trung Quốc để xây dựng đề án xuất khẩu nông sản bền vững, không để tới mùa vụ chúng ta mới thu gom để xuất khẩu, mà phải khởi tạo được vùng nguyên liệu chuẩn hóa.

Chúng ta phải bắt đầu từ vùng nguyên liệu tại địa phương, người nông dân chuẩn hóa theo quy trình canh tác và sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật phù hợp với yêu cầu của thị trường.

Nếu nông sản không sạch thì chế biến cũng không sạch theo. Kể cả các doanh nghiệp, đơn vị logistics cũng phải tham gia vào, để tạo ra giá trị cạnh tranh nhiều hơn.

Sắp tới, Bộ NN&PTNT sẽ xây dựng liên minh Hiệp hội của các đơn vị xuất khẩu nông sản và lần đầu tiên có sự tham gia của các doanh nghiệp logistics để phối hợp giảm chi phí trung gian.

Chúng tôi đã bàn với các hãng hàng không Bambo Airways và Vietjet Air, cơ bản các doanh nghiệp đồng ý giảm chi phí vận chuyển cho nông sản xuất khẩu. Khi đề án xuất khẩu nông sản bền vững được triển khai, tôi nghĩ chúng ta không chỉ xuất khẩu được 48,6 tỷ USD, mà còn cao hơn và vững chắc hơn.

Xin cảm ơn Bộ trưởng!

Theo Dân trí

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 123,800 ▼200K 124,800 ▼200K
AVPL/SJC HCM 123,800 ▼200K 124,800 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 123,800 ▼200K 124,800 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,960 ▼20K 11,060 ▼20K
Nguyên liệu 999 - HN 10,950 ▼20K 11,050 ▼20K
Cập nhật: 20/08/2025 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117,000 120,000 ▲200K
Hà Nội - PNJ 117,000 120,000 ▲200K
Đà Nẵng - PNJ 117,000 120,000 ▲200K
Miền Tây - PNJ 117,000 120,000 ▲200K
Tây Nguyên - PNJ 117,000 120,000 ▲200K
Đông Nam Bộ - PNJ 117,000 120,000 ▲200K
Cập nhật: 20/08/2025 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,470 11,920
Trang sức 99.9 11,460 11,910
NL 99.99 10,800 ▼63K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,800 ▼63K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,680 11,980
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,680 11,980
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,680 11,980
Miếng SJC Thái Bình 12,380 ▼20K 12,480 ▼20K
Miếng SJC Nghệ An 12,380 ▼20K 12,480 ▼20K
Miếng SJC Hà Nội 12,380 ▼20K 12,480 ▼20K
Cập nhật: 20/08/2025 21:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,238 ▲1114K 1,248 ▲1123K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,238 ▲1114K 12,482 ▼20K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,238 ▲1114K 12,483 ▼20K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,168 ▲1051K 1,193 ▼2K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,168 ▲1051K 1,194 ▼2K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,166 ▼2K 1,184 ▼2K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 112,728 ▼198K 117,228 ▼198K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 81,759 ▼150K 88,959 ▼150K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 7,347 ▼66259K 8,067 ▼72739K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 65,181 ▼122K 72,381 ▼122K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 61,984 ▼117K 69,184 ▼117K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 42,328 ▼83K 49,528 ▼83K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,238 ▲1114K 1,248 ▲1123K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,238 ▲1114K 1,248 ▲1123K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,238 ▲1114K 1,248 ▲1123K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,238 ▲1114K 1,248 ▲1123K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,238 ▲1114K 1,248 ▲1123K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,238 ▲1114K 1,248 ▲1123K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,238 ▲1114K 1,248 ▲1123K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,238 ▲1114K 1,248 ▲1123K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,238 ▲1114K 1,248 ▲1123K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,238 ▲1114K 1,248 ▲1123K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,238 ▲1114K 1,248 ▲1123K
Cập nhật: 20/08/2025 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16455 16724 17309
CAD 18490 18767 19394
CHF 32049 32431 33096
CNY 0 3570 3690
EUR 30110 30383 31426
GBP 34822 35215 36170
HKD 0 3246 3450
JPY 172 176 182
KRW 0 17 19
NZD 0 15072 15668
SGD 19988 20271 20808
THB 726 789 844
USD (1,2) 26125 0 0
USD (5,10,20) 26167 0 0
USD (50,100) 26195 26230 26526
Cập nhật: 20/08/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,160 26,160 26,520
USD(1-2-5) 25,114 - -
USD(10-20) 25,114 - -
EUR 30,239 30,263 31,478
JPY 175.27 175.59 183
GBP 35,136 35,231 36,113
AUD 16,684 16,744 17,215
CAD 18,676 18,736 19,271
CHF 32,213 32,313 33,117
SGD 20,109 20,172 20,838
CNY - 3,621 3,719
HKD 3,312 3,322 3,423
KRW 17.4 18.15 19.59
THB 771.39 780.92 835.89
NZD 15,008 15,147 15,578
SEK - 2,699 2,792
DKK - 4,040 4,180
NOK - 2,522 2,609
LAK - 0.93 1.29
MYR 5,829.96 - 6,577.04
TWD 785.61 - 950.94
SAR - 6,901.78 7,263.21
KWD - 83,896 89,188
Cập nhật: 20/08/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,145 26,160 26,500
EUR 30,061 30,182 31,311
GBP 34,930 35,070 36,064
HKD 3,306 3,319 3,426
CHF 32,011 32,140 33,044
JPY 174.56 175.26 182.68
AUD 16,627 16,694 17,234
SGD 20,131 20,212 20,761
THB 787 790 825
CAD 18,651 18,726 19,245
NZD 15,088 15,591
KRW 18.07 19.81
Cập nhật: 20/08/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26265 26265 26525
AUD 16633 16733 17306
CAD 18675 18775 19329
CHF 32312 32342 33216
CNY 0 3642.6 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4110 0
EUR 30405 30505 31281
GBP 35120 35170 36281
HKD 0 3365 0
JPY 175.55 176.55 183.07
KHR 0 6.347 0
KRW 0 18.6 0
LAK 0 1.161 0
MYR 0 6395 0
NOK 0 2570 0
NZD 0 15186 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2740 0
SGD 20153 20283 21012
THB 0 755.4 0
TWD 0 875 0
XAU 12200000 12200000 12600000
XBJ 10600000 10600000 12600000
Cập nhật: 20/08/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,200 26,250 26,500
USD20 26,200 26,250 26,500
USD1 26,200 26,250 26,500
AUD 16,661 16,761 17,885
EUR 30,389 30,389 31,718
CAD 18,600 18,700 20,018
SGD 20,209 20,359 20,826
JPY 175.79 177.29 181.94
GBP 35,189 35,339 36,145
XAU 12,378,000 0 12,482,000
CNY 0 3,523 0
THB 0 790 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/08/2025 21:00