Ngân hàng Nhà nước chuẩn bị giao hạn mức tín dụng cho các ngân hàng

11:04 | 07/09/2022

447 lượt xem
|
Trong 1-2 ngày tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục giao phần hạn mức tín dụng còn lại cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Quan điểm của Ngân hàng Nhà nước là tạo điều kiện cho các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng có chỉ số hoạt động tốt, lành mạnh, hệ số an toàn cao.
Ngân hàng Nhà nước chuẩn bị giao hạn mức tín dụng cho các ngân hàng
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú

Trả lời báo chí tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 8/2022 về vấn đề chia sẻ khó khăn với người dân, doanh nghiệp của các ngân hàng hàng và vấn đề hạn mức tín dụng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho hay: Trước hết nói về lãi suất, chúng ta đang không phải là nguy cơ mà đang tích cực ngăn chặn lạm phát, chống lạm phát. Theo nguyên lí như các nước đã và đang triển khai thì rõ ràng việc chống lạm phát là tăng lãi suất để hạn chế đầu tư. Đấy là nguyên lý và giải pháp của các nước phát triển nhất trên thế giới. Chúng ta cũng đang thực hiện giải pháp đó.

Đưa dẫn chứng về việc này, đại diện ngân hàng nhà nước đã đề cập đến việc Fed thay đổi nâng lãi suất liên tục, sau 4 lần nâng thì đến nay mức lãi suất đã tăng lên đến 2,25-2,5% một năm, tổng mức tăng là 2,25 điểm phần trăm. Ngân hàng châu Âu, ngân hàng có tính chất chi phối nền kinh tế lớn, cũng tăng rất cao lên 0,5%, chấm dứt 11 năm vừa qua duy trì lãi suất âm. Nhiều quốc gia khác cũng đang tăng lãi suất.

Đối với Việt Nam, lạm phát cũng là câu chuyện rất được quan tâm và Chính phủ đang chỉ đạo rất nhiều biện pháp để ngăn chặn lạm phát. Trong vài tháng gần đây, đặc biệt là tháng 7, tháng 8 vừa qua, giá xăng cũng giảm nên chỉ số lạm phát có dương nhưng không nhiều. Chính vì thế chúng ta tiếp tục duy trì được mức lạm phát 2,88%. Những yếu tố về tiền tệ cùng một số nguyên nhân khác nữa cũng là những vấn đề cần được kiểm soát chặt chẽ. Chính vì thế, việc điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương lúc này cũng là vấn đề cần được tính toán rất chặt chẽ.

“Từ năm 2021, kể cả năm 2022 này, đáng nhẽ các nước phải tăng lãi suất rất cao, nhưng ngân hàng Trung ương vẫn duy trì ổn định lãi suất điều hành, không thay đổi. Điều này nếu xét về mức tốc độ tương đối của đất nước thì rõ ràng Việt Nam đang giảm giá, giảm lãi suất so với các nước đang tăng nhanh”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú nhấn mạnh.

Để tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tiếp cận với nguồn vốn hợp lí với giá rẻ hơn so với nguồn vốn đi vay ở nước ngoài, thì đây cũng là một trong những chính sách của Ngân hàng Nhà nước.

Thứ nữa, theo đại diện Ngân hàng Nhà nước, thời gian vừa qua, ngành Ngân hàng phải đáp ứng được nhiều nội dung, nhiều nhu cầu, nhiều bài toán đặt ra. Đó là vấn đề kiểm soát lạm phát nhưng vừa hỗ trợ việc tăng trưởng kinh tế cũng như đảm bảo khôi phục nhanh nền kinh tế, nhất là sau dịch. Hai vấn đề này đặt ra bài toán Ngân hàng Nhà nước phải tiếp tục điều hành lãi suất hết sức linh hoạt và đảm bảo được mục tiêu đó. Chính vì thế, đối với ngân hàng thương mại, thời gian qua cũng có biến động tăng nhẹ, kể cả lãi suất huy động cho vay, nhưng có thể nói ở mức rất nhẹ, huy động là 0,25%, cho vay là 0,24%. Có thể nói là thấp nhất trong tất cả các nước khu vực và châu Á.

Hiện nay lãi suất cho vay bình quân chỉ khoảng 7,9-9,3%, kể cả dư nợ cũ và mới, lãi suất huy động bình quân từ 6,3-6,8% đối với kì hạn trên 1 năm. Mức lãi suất cho vay này so với mấy năm gần đây có thể nói duy trì ở mức khá ổn định. Tuy nhiên, để kiểm soát lạm phát nhưng lại đảm bảo khôi phục nhanh nền kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thì thời gian vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chỉ đạo và lời kêu gọi của Thủ tướng.

“Chúng tôi cũng sẽ cùng Hiệp hội Ngân hàng tiếp tục chỉ đạo các ngân hàng thương mại tìm các biện pháp bằng nội lực của mình, nguồn lực của mình để hỗ trợ doanh nghiệp. Giống như 2 năm vừa qua chúng ta thực hiện chống dịch COVID-19 thì nguồn lực giảm lãi suất để hỗ trợ cho doanh nghiệp là 52 nghìn tỷ. Lần này chúng tôi tiếp tục kêu gọi, vận động các ngân hàng thương mại bằng việc cắt giảm chi phí trong hoạt động của mình, thứ hai là cắt giảm một phần lợi nhuận để tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp vay vốn trong thời gian tới”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú nói.

Ngân hàng Nhà nước chuẩn bị giao hạn mức tín dụng cho các ngân hàng
Khách hàng giao dịch tại Agribank

Về câu chuyện lợi nhuận cao, cả chục nghìn tỷ, nhìn chung thì chúng ta có thể đánh giá là cao nhưng xét về góc độ tỉ lệ lợi nhuận trên tỉ lệ vốn của các ngân hàng thì không cao so với nhiều ngành khác.

Về hạn mức tín dụng, một trong những yêu cầu cao nhất đặt ra là tránh việc lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền và ổn định kinh tế vĩ mô. Đây không chỉ là chỉ đạo của Chính phủ, Quốc hội mà còn là Nghị quyết của Trung ương bởi vì ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện quan trọng để tiếp tục ổn định kinh tế xã hội của đất nước, tiếp tục đổi mới phát triển. Chính vì thế, nhiệm vụ duy trì tỉ lệ lạm phát theo mục tiêu được đặt ra từ đầu năm là dưới 4% và chỉ tiêu tăng trưởng đặt ra là từ 6-6,5%. Ngân hàng Nhà nước cũng đặt ra mức tăng trưởng tín dụng khoảng 14% tùy điều kiện thực tế để linh hoạt trong điều hành. Để thực hiện việc này, ngay từ đầu năm, trong điều kiện nền kinh tế không có những biến động, đặc biệt là giá cả xăng dầu, một số hàng hóa ảnh hưởng đến giá cả chung trong nước như hiện nay thì 14% này có thể nói được tính toán tương đối đầy đủ. Từ đầu năm cũng đã giao chỉ tiêu hạn mức tín dụng cho các tổ chức tín dụng để triển khai. Đến hiện nay, tốc độ tăng trưởng tín dụng 9,91% là rất cao so với cùng kỳ năm ngoái và có thể nói cơ bản đã sử dụng hết hạn mức giao đầu năm.

“Phần còn lại Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục giao đầu mối cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng trong 1-2 ngày tới, với quan điểm tạo điều kiện cho các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng có chỉ số hoạt động tốt, lành mạnh, hệ số an toàn cao”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú thông tin.

Hải Anh

Tin tức kinh tế ngày 6/9: Ngân hàng vẫn “ngóng” room tín dụngTin tức kinh tế ngày 6/9: Ngân hàng vẫn “ngóng” room tín dụng
Đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42Đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42
Nguồn vốn Agribank góp phần thúc đẩy cơ giới hoá, hướng tới nền nông nghiệp phát triển bền vữngNguồn vốn Agribank góp phần thúc đẩy cơ giới hoá, hướng tới nền nông nghiệp phát triển bền vững
Tín dụng “tam nông” ở Đăk Lăk phát huy hiệu quảTín dụng “tam nông” ở Đăk Lăk phát huy hiệu quả
Agribank ra mắt Ngân hàng số - Một chạm đa tiện íchAgribank ra mắt Ngân hàng số - Một chạm đa tiện ích
Thúc đẩy Đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vữngThúc đẩy Đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 122,700 124,100
AVPL/SJC HCM 122,700 124,100
AVPL/SJC ĐN 122,700 124,100
Nguyên liệu 9999 - HN 11,000 11,100
Nguyên liệu 999 - HN 10,990 11,090
Cập nhật: 08/08/2025 01:01
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117,500 120,000
Hà Nội - PNJ 117,500 120,000
Đà Nẵng - PNJ 117,500 120,000
Miền Tây - PNJ 117,500 120,000
Tây Nguyên - PNJ 117,500 120,000
Đông Nam Bộ - PNJ 117,500 120,000
Cập nhật: 08/08/2025 01:01
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,480 11,930
Trang sức 99.9 11,470 11,920
NL 99.99 10,830
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,830
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,690 11,990
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,690 11,990
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,690 11,990
Miếng SJC Thái Bình 12,240 12,380
Miếng SJC Nghệ An 12,240 12,380
Miếng SJC Hà Nội 12,240 12,380
Cập nhật: 08/08/2025 01:01
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 1,238
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,224 12,382
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,224 12,383
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,168 1,193
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,168 1,194
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,167 1,187
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 113,025 117,525
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 81,984 89,184
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 73,674 80,874
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 65,364 72,564
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 62,159 69,359
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 42,453 49,653
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 1,238
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 1,238
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 1,238
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 1,238
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 1,238
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 1,238
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 1,238
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 1,238
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 1,238
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 1,238
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 1,238
Cập nhật: 08/08/2025 01:01

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16586 16855 17430
CAD 18553 18830 19447
CHF 31848 32229 32879
CNY 0 3570 3690
EUR 29978 30251 31279
GBP 34229 34620 35564
HKD 0 3208 3410
JPY 171 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 15301 15891
SGD 19881 20163 20679
THB 726 789 843
USD (1,2) 25944 0 0
USD (5,10,20) 25984 0 0
USD (50,100) 26013 26047 26387
Cập nhật: 08/08/2025 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,040 26,040 26,400
USD(1-2-5) 24,998 - -
USD(10-20) 24,998 - -
GBP 34,628 34,721 35,596
HKD 3,281 3,291 3,391
CHF 32,188 32,288 33,094
JPY 175.05 175.36 182.79
THB 774.52 784.08 838.82
AUD 16,829 16,890 17,368
CAD 18,782 18,843 19,385
SGD 20,049 20,111 20,787
SEK - 2,686 2,781
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,033 4,172
NOK - 2,536 2,627
CNY - 3,605 3,702
RUB - - -
NZD 15,282 15,424 15,870
KRW 17.55 18.3 19.75
EUR 30,177 30,202 31,416
TWD 795.61 - 963.12
MYR 5,797.73 - 6,537.98
SAR - 6,869.93 7,230.34
KWD - 83,522 88,796
XAU - - -
Cập nhật: 08/08/2025 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,040 26,050 26,390
EUR 29,955 30,075 31,201
GBP 34,376 34,514 35,500
HKD 3,275 3,288 3,394
CHF 31,937 32,065 32,971
JPY 173.68 174.38 181.76
AUD 16,705 16,772 17,313
SGD 20,037 20,117 20,664
THB 789 792 827
CAD 18,742 18,817 19,342
NZD 15,298 15,804
KRW 18.12 19.88
Cập nhật: 08/08/2025 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26030 26030 26390
AUD 16746 16846 17411
CAD 18726 18826 19380
CHF 32092 32122 33008
CNY 0 3615.7 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4100 0
EUR 30226 30326 31101
GBP 34533 34583 35694
HKD 0 3330 0
JPY 174.32 175.32 181.83
KHR 0 6.347 0
KRW 0 18.6 0
LAK 0 1.155 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2575 0
NZD 0 15392 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2735 0
SGD 20026 20156 20888
THB 0 755.3 0
TWD 0 885 0
XAU 12000000 12000000 12400000
XBJ 10600000 10600000 12410000
Cập nhật: 08/08/2025 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,030 26,080 26,340
USD20 26,030 26,080 26,340
USD1 26,030 26,080 26,340
AUD 16,790 16,890 18,015
EUR 30,286 30,286 31,626
CAD 18,681 18,781 20,108
SGD 20,119 20,269 20,744
JPY 175.06 176.56 181.28
GBP 34,629 34,779 35,583
XAU 12,238,000 0 12,382,000
CNY 0 3,499 0
THB 0 792 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 08/08/2025 01:01