Ngoài Covid-19, còn một "bệnh dịch" khác phải giải quyết

07:16 | 13/06/2021

878 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Mục tiêu "kép" vừa chống dịch vừa đảm bảo phát triển kinh tế - quyết tâm là có, song để đạt được là khó, cần rất nhiều giải pháp đồng bộ.
Ngoài Covid-19, còn một bệnh dịch khác phải giải quyết - 1

"Tài sản lớn nhất của doanh nghiệp lữ hành là người lao động, nhưng các công ty dừng hoạt động, không có nguồn thu để giữ chân họ. Số người lao động trong ngành mất việc lên tới hàng chục nghìn, rất đau xót".

Đây là chia sẻ của ông Nguyễn Quốc Kỳ - Chủ tịch Công ty Vietravel, đại diện ngành du lịch tại buổi gặp gỡ giữa lãnh đạo TPHCM và cộng đồng doanh nghiệp diễn ra ngày 10/6. Theo đó, Covid-19 đã gây tác động nặng nề nhất trong lịch sử ngành du lịch, tất cả các doanh nghiệp lữ hành trên cả nước gần như dừng hoạt động.

Ông Kỳ lấy ví dụ ngay tại doanh nghiệp của mình, chỉ còn 50 người trên tổng số hơn 1.700 lao động đang làm việc.

Không chỉ du lịch, rất nhiều hoạt động khác từ sản xuất, chế biến đến cung ứng dịch vụ đều gặp khó với Covid-19. Một số địa phương phải giãn cách hoặc tạm dừng một số hoạt động dịch vụ không thiết yếu, các khu công nghiệp bị Covid-19 tấn công.

Mục tiêu "kép" vừa chống dịch vừa đảm bảo phát triển kinh tế - quyết tâm là có, song để đạt được là khó, cần rất nhiều giải pháp đồng bộ.

Vấn đề nằm ở chỗ, ngay cả khi chúng ta kiểm soát được dịch thì câu chuyện phía sau công cuộc hồi phục của cộng đồng doanh nghiệp cũng vô cùng gian nan.

Tại TPHCM, 2.274 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 5% so với cùng kỳ; 9.308 doanh nghiệp tạm ngưng hoạt động, tăng 23%; hơn 42.500 công nhân mất việc hoặc ngừng việc; 410 doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn để trả lương cho công nhân.

Tại cuộc tọa đàm về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội mới tổ chức, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Bùi Quang Tuấn nêu lên một rủi ro rất đáng lưu tâm: Lạm phát!

"Những năm qua, mức lạm phát ở Việt Nam không cao nhưng xu hướng thời gian tới sẽ tăng cao. Đó là do các gói hỗ trợ, kích thích nền kinh tế đã bung ra, tới độ trễ vài tháng nữa sẽ thấy tác động. Hiện tại, các yếu tố đầu vào cho sản xuất, tiêu dùng cũng đã tăng mạnh, xăng dầu tăng 30%, các loại hàng hóa, nguyên vật liệu khác đã tăng 16%...".

Có lẽ bây giờ là hơi sớm để đặt vấn đề về lạm phát kèm suy thoái (Stagflation) - điều kiện tăng trưởng kinh tế chậm và tỉ lệ thất nghiệp tương đối cao, hoặc trì trệ kinh tế kèm theo giá cả tăng hoặc lạm phát.

Tuy nhiên, khi quan sát về mức tăng của thị trường nguyên/nhiên liệu trên thế giới, thậm chí giới nghiên cứu kinh tế còn tính đến một siêu chu kỳ hàng hóa. Giá dầu tăng, nguyên liệu tăng, doanh nghiệp (nếu may mắn) vượt qua cú "sốc" Covid-19 rồi lại đương đầu với cơn bão lạm phát đầu vào, kèm sức mua của nền kinh tế suy giảm… có thể thấy, rất nhiều việc phải làm để vực dậy sức khỏe nền kinh tế thời gian tới.

Tính đến nay, Chính phủ mới kiện toàn do Thủ tướng Phạm Minh Chính đứng đầu, mới vận hành được hơn 60 ngày. "Thủ tướng nhấn mạnh với các cơ quan của Chính phủ khi đối diện những yêu cầu của người dân và doanh nghiệp là "không được nói không, không được nói khó, không được nói có mà không làm" - Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc cho hay và nhận xét thêm rằng: Một Chính phủ hành động với tinh thần trách nhiệm được đề cao sẽ tạo ra những cơ hội cho phát triển đất nước.

Chúng ta tin rằng, với sự nỗ lực, quyết tâm cao của Thủ tướng và các thành viên Chính phủ, tới đây sẽ có những chính sách và quyết sách kịp thời (từ tài khóa đến tiền tệ - như gói kích thích, chính sách giãn, hoãn thuế, chính sách khoanh nợ) để hỗ trợ doanh nghiệp và bảo đảm an sinh.

Tuy nhiên, câu chuyện muôn thuở vẫn là sự "đồng bộ", tính nhất quán từ trên xuống dưới, không "trên nóng, dưới lạnh". Như ông Đậu Anh Tuấn - Trưởng ban Pháp chế VCCI phản ánh: "Rất nhiều doanh nghiệp phát nản nói, muốn nhận chính sách hỗ trợ thì lên tivi".

Đó là thách thức nội tại và lực cản rất lớn, hay cũng là một thứ "dịch bệnh" về chây ỳ, cửa quyền mà người viết thiết nghĩ, Chính phủ sẽ phải giải quyết rốt ráo bên cạnh cuộc chiến cam go chống Covid-19 hiện nay.

Theo Dân trí

Giới khoa học đau đầu Giới khoa học đau đầu "giải mã" mối liên hệ giữa Covid-19 và não bộ
TP HCM: 22 nhân viên Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới nghi nhiễm Covid-19TP HCM: 22 nhân viên Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới nghi nhiễm Covid-19
Phú Thọ xuất hiện ca dương tính về từ Hà Nội, cách ly 12 hộ gia đìnhPhú Thọ xuất hiện ca dương tính về từ Hà Nội, cách ly 12 hộ gia đình
Tiêm chủng vắc xin - giải pháp căn cơ đẩy lùi dịch bệnh Covid-19Tiêm chủng vắc xin - giải pháp căn cơ đẩy lùi dịch bệnh Covid-19
Bộ Y tế phê duyệt vắc-xin Pfizer/BioNtechBộ Y tế phê duyệt vắc-xin Pfizer/BioNtech

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
AVPL/SJC HCM 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
AVPL/SJC ĐN 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,330 ▲400K 11,610 ▲350K
Nguyên liệu 999 - HN 11,320 ▲400K 11,600 ▲350K
Cập nhật: 21/04/2025 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
TPHCM - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Hà Nội - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Hà Nội - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Đà Nẵng - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Đà Nẵng - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Miền Tây - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Miền Tây - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.500 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.500 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.500 ▲4000K 116.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.380 ▲3990K 115.880 ▲3990K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.670 ▲3970K 115.170 ▲3970K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.440 ▲3960K 114.940 ▲3960K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.650 ▲3000K 87.150 ▲3000K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.510 ▲2340K 68.010 ▲2340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.910 ▲1670K 48.410 ▲1670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.860 ▲3670K 106.360 ▲3670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.410 ▲2440K 70.910 ▲2440K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.050 ▲2600K 75.550 ▲2600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.530 ▲2720K 79.030 ▲2720K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.150 ▲1500K 43.650 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.930 ▲1320K 38.430 ▲1320K
Cập nhật: 21/04/2025 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,220 ▲400K 11,790 ▲450K
Trang sức 99.9 11,210 ▲400K 11,780 ▲450K
NL 99.99 11,220 ▲400K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,220 ▲400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 ▲400K 11,800 ▲450K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 ▲400K 11,800 ▲450K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 ▲400K 11,800 ▲450K
Miếng SJC Thái Bình 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Miếng SJC Nghệ An 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Miếng SJC Hà Nội 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Cập nhật: 21/04/2025 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16110 16377 16950
CAD 18226 18502 19116
CHF 31464 31843 32488
CNY 0 3358 3600
EUR 29248 29518 30546
GBP 33878 34267 35214
HKD 0 3204 3407
JPY 177 181 187
KRW 0 0 18
NZD 0 15247 15841
SGD 19337 19617 20144
THB 697 760 813
USD (1,2) 25623 0 0
USD (5,10,20) 25661 0 0
USD (50,100) 25689 25723 26065
Cập nhật: 21/04/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,700 25,700 26,060
USD(1-2-5) 24,672 - -
USD(10-20) 24,672 - -
GBP 34,226 34,318 35,228
HKD 3,275 3,285 3,385
CHF 31,600 31,698 32,587
JPY 180.2 180.52 188.59
THB 745.03 754.23 807.01
AUD 16,392 16,451 16,902
CAD 18,498 18,557 19,056
SGD 19,531 19,592 20,212
SEK - 2,674 2,768
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,933 4,069
NOK - 2,445 2,531
CNY - 3,513 3,609
RUB - - -
NZD 15,214 15,356 15,808
KRW 16.96 - 19
EUR 29,403 29,427 30,686
TWD 720.96 - 872.84
MYR 5,536.18 - 6,245.4
SAR - 6,781.86 7,138.75
KWD - 82,281 87,521
XAU - - -
Cập nhật: 21/04/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,700 25,720 26,060
EUR 29,244 29,361 30,452
GBP 34,008 34,145 35,117
HKD 3,270 3,283 3,390
CHF 31,496 31,622 32,544
JPY 179.63 180.35 187.93
AUD 16,241 16,306 16,835
SGD 19,514 19,592 20,127
THB 760 763 797
CAD 18,425 18,499 19,017
NZD 15,221 15,730
KRW 17.46 19.26
Cập nhật: 21/04/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25692 25692 26052
AUD 16281 16381 16951
CAD 18403 18503 19056
CHF 31663 31693 32583
CNY 0 3515.2 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29399 29499 30374
GBP 34168 34218 35321
HKD 0 3330 0
JPY 181.04 181.54 188.05
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15349 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19482 19612 20333
THB 0 726.4 0
TWD 0 790 0
XAU 11600000 11600000 11800000
XBJ 10200000 10200000 11800000
Cập nhật: 21/04/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,710 25,760 26,120
USD20 25,710 25,760 26,120
USD1 25,710 25,760 26,120
AUD 16,325 16,475 17,551
EUR 29,586 29,736 30,915
CAD 18,352 18,452 19,776
SGD 19,574 19,724 20,191
JPY 180.95 182.45 187.11
GBP 34,284 34,434 35,315
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 762 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 21/04/2025 16:00