Những yếu tố nào mang kỳ vọng cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam?

13:13 | 08/09/2020

231 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Đến nay, nhiều loại vaccine đang được phát triển trên thế giới và dự kiến sản xuất thương mại từ đầu năm 2021; các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU đang có dấu hiệu "ấm" dần lên; việc nối lại các chuyến bay quốc tế với mục đích thương mại... đang được xem là những yếu tố thuận lợi đối với tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam từ nay đến cuối năm.

Kinh tế thế giới vẫn đang tìm đà hồi phục

Những nền kinh tế hàng đầu thế giới mặc dù đã có dấu hiệu tích cực hơn nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều bất ổn. Tại Mỹ, sản xuất công nghiệp đã tăng tháng thứ ba liên tiếp và đạt mức 3% trong tháng 7/2020 (sau mức tăng 5,7% vào tháng 6 trước đó). Tháng 8/2020, chỉ số Quản lý thu mua (PMI) của Mỹ tiếp tục tăng 4,3 điểm so với tháng 7 lên 54,7 điểm (trong đó PMI sản xuất tăng lên 53,6 điểm, PMI dịch vụ tăng lên 54,8), cho thấy dự báo mở rộng đơn hàng trong tháng tới.

1938-pal1586513340
Kinh tế thế giới vẫn đang tìm đà hồi phục

Song song với các dấu hiệu phục hồi vững chắc ở khu vực sản xuất, niềm tin kinh doanh của Mỹ trong tháng 8 đã phục hồi hình chữ V và đạt 54,2 điểm (cao hơn mức 52,6 điểm vào tháng 7/2020 và là mức cao nhất kể từ tháng 3/2019 trở lại đây). Các dấu hiệu tích cực này cho thấy sản xuất trong nước của Mỹ có thể duy trì đà phục hồi tốt trong tháng tới, đặc biệt khi cuộc chiến vaccine chống lại đại dịch đang tiến triển khả quan.

Còn tại Trung Quốc, nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, dịch Covid-19 và lũ lụt hoành hành khiến đà hồi phục của nền kinh tế này chịu ảnh hưởng nặng nề. Tính đến thời điểm này, lũ lụt trên sông Dương Tử đã gây ra thiệt hại kinh tế trực tiếp lên tới 178,9 tỷ nhân dân tệ (tương đương 25,7 tỷ USD).

Kinh tế khối Liên minh châu Âu (EU) vẫn chưa có nhiều điểm sáng khi chỉ số PMI tổng hợp sơ bộ tháng 8 đã giảm 3,3 điểm so với tháng 7 xuống 51,6 điểm, trong đó PMI sản xuất giảm 0,1 điểm và PMI dịch vụ giảm 4,4 điểm. Những con số này cho thấy đà phục hồi kinh tế EU sau thời kỳ suy thoái sâu nhất trong lịch sử đang phần nào chậm lại, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ do tỷ lệ lây nhiễm Covid-19 có dấu hiệu tăng trở lại, vì vậy một số biện pháp hạn chế buộc phải tái áp dụng.

Trong khi đó, khu vực Đông Nam Á được nhận định sẽ phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng lớn hơn nhiều do nền kinh tế khu vực này phụ thuộc lớn vào toàn cầu hóa - dòng vốn đầu tư và khách du lịch quốc tế. Đồng thời, "sức khỏe" tài chính nhiều quốc gia trong khu vực hiện được đánh giá là tương đối "yếu". Căng thẳng leo thang giữa hai trong số các đối tác kinh tế lớn nhất của khu vực là Mỹ và Trung Quốc sẽ ảnh hưởng đến tốc độ phục hồi kinh tế các nước Đông Nam Á.

Việt Nam nhìn thấy những điểm sáng

Làn sóng Covid-19 thứ hai đang tác động tiêu cực đến hầu hết các khía cạnh của nền kinh tế Việt Nam trong nửa cuối năm 2020, đặc biệt là ngành dịch vụ và thị trường lao động. Trước tình hình trên, Công ty Cổ phần Chứng khoán VNDIRECT đã hạ triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ 4,5% xuống 3,5% và đưa ra 2 kịch bản cho nửa cuối năm 2020. Kịch bản cơ sở với tăng trưởng GDP năm 2020 là 3,5% (trong đó, quý III/2020 là 3,5% và quý IV/2020 là 5,6%); Kịch bản tiêu cực với tăng trưởng GDP năm 2020 là 2,3% (trong đó, quý III/2020 là 1,6 % và quý IV/2020 là 3,5 %).

1927-kich-ban-kinh-te-the-gioi-2020
Nhiều kỳ vọng cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Tuy nhiên, bên cạnh những "gam màu tối", nền kinh tế Việt Nam vẫn có những điểm sáng cho tăng trưởng so với nhiều nước trên thế giới, trong bối cảnh dịch bệnh đang diễn biến phức tạp. Hiện các nền kinh tế lớn đang duy trì nới lỏng tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nên rủi ro đối với tỷ giá trong nửa cuối năm 2020 là không đáng kể. Điều này cộng với việc dự trữ ngoại hối tiếp tục gia tăng trong thời gian gần đây sẽ góp phần ổn định tỷ giá trong thời gian tới.

Về lãi suất, với kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và hạ lãi suất điều hành (lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn) khoảng 0,25-0,5% trong nửa cuối năm 2020, dự báo lãi suất huy động và lãi suất cho vay sẽ giảm 0,25-0,5% điểm trong nửa cuối năm, trong đó lãi suất huy động các kỳ hạn ngắn có thể giảm mạnh hơn so với các kỳ hạn dài. Tuy nhiên, nhu cầu tín dụng được dự báo vẫn ở mức thấp trong nửa cuối năm do nhiều doanh nghiệp quyết định tạm dừng mở rộng hoạt động kinh doanh trong bối cảnh đại dịch Covid-19 chưa được kiểm soát. Tín dụng cả năm 2020 dự báo tăng trưởng khoảng 8,0-9,0% so với cùng kỳ.

Hiện nhiều loại vaccine đang được phát triển trên thế giới và dự kiến sản xuất thương mại từ đầu năm 2021. Việc tiêm chủng vaccine sẽ giúp đẩy lùi Covid-19 trên toàn cầu, từ đó tạo ra tiền đề cho sự phục hồi của nền kinh tế thế giới. Mặt khác, sự mở cửa trở lại của các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU, sẽ giúp hàn gắn lại chuỗi cung ứng toàn cầu vốn đã bị phá hủy một phần do tác động của Covid-19 cũng như giúp gia tăng nhu cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Cùng với đó, việc nối lại các chuyến bay quốc tế với mục đích thương mại sẽ thúc đẩy sự hồi phục của ngành du lịch, một trong hai động lực tăng trưởng chính của ngành dịch vụ Việt Nam trong năm 2021, bên cạnh sự phục hồi của tiêu dùng nội địa.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội được kỳ vọng sẽ tăng mạnh trong năm 2021 do Chính phủ tiếp tục thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh áp lực lạm phát thấp trong năm tới; Vốn đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phục hồi trong năm 2021 nhờ môi trường kinh doanh thuận lợi hơn sau khi đại dịch Covid-19 được kiểm soát.

Có thể thấy, kể từ khi xuất hiện và bùng phát ở hàng loạt các quốc gia trên thế giới, cho đến nay Covid-19 đã làm đảo lộn tất cả các kịch bản kinh tế, đảo lộn mọi dự báo, cũng sẽ làm thay đổi cả cấu trúc kinh tế toàn cầu. Nhưng trong nguy luôn có cơ. Nhiều chuyên gia kinh tế khi nhận định về những tác động của dịch bệnh Covid-19 đến nền kinh tế toàn cầu cũng như ở các khu vực hay tại các quốc gia nói riêng đều có những ý kiến chung rằng, cấu trúc kinh tế toàn cầu thay đổi, cơ hội sẽ dành cho các nước sớm vượt qua đại dịch Covid-19, sớm có các giải pháp để phục hồi kinh tế, sớm có các chiến lược và kế hoạch bài bản, có tầm nhìn xa để ngay lập tức có thể tham gia vào “cuộc chơi mới”: Thế giới hậu Covid-19.

Việt Nam đã làm gì để nắm lấy thời cơ này? Rõ ràng, để nắm được cơ hội lớn này không phải là điều dễ dàng. Do vậy, bên cạnh những yếu tố thuận lợi đang có, Việt Nam cần có sự nỗ chung tay từ cấp Trung ương đến địa phương, sự vào cuộc quyết liệt của các cấp bộ ngành để tìm ra những giải pháp căn cơ nhất, nhằm vực lại nền kinh tế hậu Covid-19, từ đó tăng trưởng bứt phá trong thời gian tới.

M.L

Kinh tế Việt Nam không hề Kinh tế Việt Nam không hề "chông chênh"!
Điều gì chờ đợi thị trường dầu mỏĐiều gì chờ đợi thị trường dầu mỏ
Thủ tướng: “Sức khỏe” tài chính Việt Nam hoàn toàn có thể vượt qua Covid-19Thủ tướng: “Sức khỏe” tài chính Việt Nam hoàn toàn có thể vượt qua Covid-19

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 21/04/2025 02:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 21/04/2025 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,820 11,340
Trang sức 99.9 10,810 11,330
NL 99.99 10,820
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,050 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,050 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,050 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 21/04/2025 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 21/04/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 21/04/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 21/04/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 21/04/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 21/04/2025 02:00