Tại sao cuộc khủng hoảng thiếu điện của Trung Quốc lại là một vấn đề lớn

08:46 | 02/10/2021

549 lượt xem
|
CNBC ngày 30/9/2021 có bài phân tích một số nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng thiếu năng lượng điện ở Trung Quốc và tác động của nó đến thị trường và nền kinh tế. Một số nhà kinh tế đã cắt giảm dự báo của mình về tăng trưởng GDP của Trung Quốc, một số nhà quan sát khác vẫn đang chờ xem quy mô của tác động.

Nguồn cung than giảm, giá tăng

Cuối năm 2020, Trung Quốc đã ngừng mua than từ Úc, từng là nguồn nhập khẩu than lớn nhất của Trung Quốc. Căng thẳng chính trị giữa hai nước tác động đến quan hệ thương mại song phương. Thời tiết lạnh giá lịch sử vào mùa đông năm 2020 đã làm tăng nhu cầu về than. Một số thành phố báo cáo là đã phải hạn chế sử dụng điện gia đình và nhà máy. Cùng với sự gia tăng giá hàng hóa toàn cầu, than nhiệt, nhiên liệu chính để sản xuất điện, đã tăng giá hơn 40% trong 12 tháng, lên khoảng 777 NDT/tấn (119,53 USD) vào tháng 12/2020 trên Sàn giao dịch hàng hóa Trịnh Châu. Đầu năm 2021, Trung Quốc đã công bố các mục tiêu trong 5 năm để đạt mức phát thải carbon cao nhất vào năm 2030. Trung Quốc đặt mục tiêu trong 5 năm tới sẽ tăng tỷ trọng của nhiên liệu không hóa thạch lên 20% so với mức 15% hiện nay.

Năng lượng tái tạo giảm

Trong khi Trung Quốc cố gắng chuyển sang năng lượng tái tạo, một đợt hạn hán nghiêm trọng đã ập đến trung tâm thủy điện của tỉnh Vân Nam. Thủy điện đã giảm hơn 4% so với cùng kỳ năm trước vào tháng Bảy và tháng Tám. Năng lượng gió tăng chậm lại, tăng 7% trong tháng 8 so với cùng kỳ năm trước, giảm so với mức tăng trưởng 25,4% trong tháng 7. Các nhà phân tích cho rằng các mục tiêu về khí hậu của Trung Quốc trong kế hoạch 5 năm mới nhất là thấp hơn so với dự kiến. Trong báo cáo ngày 15/9, tổ chức quốc tế Theo dõi Hành động Khí hậu (Climate Action Tracker), chuyên đánh giá nỗ lực của các quốc gia về đáp ứng các mục tiêu của Thỏa thuận Paris, đánh giá chính sách và hành động của Trung Quốc là “không đủ”. Phần lớn điện ở Trung Quốc vẫn được tạo ra từ than đá. Tốc độ tăng trưởng sử dụng điện năng hàng năm đã tăng lên mức cao nhất trong một thập kỷ.

Tại sao cuộc khủng hoảng thiếu điện của Trung Quốc lại là một vấn đề lớn
Một nhà máy nhiệt điện tại Thượng Hải. Ảnh:Hector Retamal/AFP/Getty Images.

Bắt đầu việc phân phối điện

Ngoài vấn đề nhiệt độ khắc nghiệt, các nhà máy đang ngày càng cần nhiều điện năng hơn khi gấp rút thực hiện các đơn đặt hàng toàn cầu đối với hàng hóa Trung Quốc. Xuất khẩu của Trung Quốc đã tăng hai con số trong bối cảnh đại dịch. Tháng 5/2021, các nhà phân tích của tổ chức tư vấn Eurasia Group cho biết nhu cầu về năng lượng điện đã tăng lên cùng với sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc. Họ lưu ý rằng một số trung tâm công nghiệp dọc theo bờ biển phía đông của Trung Quốc, bao gồm Quảng Đông, Chiết Giang, Giang Tô và Sơn Đông, đã cảnh báo về khả năng thiếu điện tạm thời trong mùa cao điểm mùa hè.

Tháng 6/2021, việc hạn chế điện đã diễn ra ở một số khu vực của trung tâm xuất khẩu Quảng Đông. Nguồn cung than giảm do các mỏ đóng cửa trong nỗ lực nhằm giảm lượng khí thải carbon. Tháng 8/2021, dự trữ than của các nhà máy nhiệt điện lớn đã ở mức thấp nhất trong 10 năm qua. Tuần qua, việc cắt điện lớn đã xảy ra tại các nhà máy ở thành phố Đông Quan, trung tâm sản xuất của Quảng Đông. Tình trạng mất điện đột ngột cũng diễn ra tại nhiều nơi phía đông bắc Trung Quốc, trong đó có các khu dân cư của tỉnh Liêu Ninh. Theo dữ liệu chính thức từ tháng Giêng đến tháng Tám, tỉnh Quảng Đông chiếm 23% giá trị xuất khẩu của Trung Quốc, Liêu Ninh chiếm 1,6%.Việc cắt điện đồng nghĩa là sản phẩm không thể giao đúng hạn. Tình hình tương tự cũng diễn ra ở Thượng Hải và cảng Ninh Ba. Sự sụt giảm sản xuất đã làm giảm nhu cầu vận chuyển hàng ra nước ngoài. Giá vận chuyển đến Bờ Tây nước Mỹ đã giảm từ 15.000 USD/container xuống còn 9.000 USD/container. Sự sụt giảm đã diễn ra từ ngày 24/9/2021. Reuters đưa tin hơn 10 tỉnh và khu vực ở Trung Quốc đã bị hạn chế sử dụng điện.

Tại sao cuộc khủng hoảng thiếu điện của Trung Quốc lại là một vấn đề lớn
Mạng lưới điện tại tỉnh Triết Giang. Ảnh: Tân Hoa Xã.

Vừa qua, Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia và Mạng lưới điện Nhà nước của Trung Quốc cam kết đảm bảo nguồn điện, đặc biệt là cho người dân và sẽ cho phép sản xuất nhiều than hơn và tăng nhập khẩu than. Cơ quan chức năng cho biết nhu cầu điện trong mùa đông này có thể vượt mức cao nhất của mùa hè và mùa đông vừa qua. Giá than nhiệt đã tăng gần gấp đôi trong năm nay, giao dịch ở mức gần 1.319 NDT/tấn vào giữa ngày thứ Năm.

Ảnh hưởng kinh tế

Khi nói đến tác động kinh tế, có nhà phân tích cho rằng việc cắt điện chủ yếu là do chính quyền địa phương không có khả năng điều chỉnh giá điện, phần lớn giá điện do nhà nước ấn định. Tác động của việc hạn chế điện tương đương với một thảm họa thiên nhiên. Một số nhà kinh tế khác cho rằng việc hạn chế điện sẽ có tác động nghiêm trọng hơn. Ngân hàng đầu tư Nomura đã cắt giảm dự báo GDP của Trung Quốc, tiếp theo là Goldman Sachs. Trưởng chuyên gia kinh tế tại Pinpoint Asset Management Zhiwei Zhang cho biết việc cắt điện tự nó có thể không đủ đáng kể, nhưng kết hợp với tình trạng suy thoái trong lĩnh vực bất động sản và bùng phát đại dịch Covid trong khu vực, các nhà đầu tư lo lắng nhiều hơn về tăng trưởng GDP trong Quý IV. Zhiwei Zhang đã hạ dự báo cho Quý IV từ 5% xuống 4%. Hầu hết các chuyên gia kinh tế tại các tổ chức tài chính khác chưa điều chỉnh dự báo mà đang chờ xem mức độ sụt giảm sản xuất sẽ như thế nào./.

Thanh Bình

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 122,700 ▲500K 124,100 ▲300K
AVPL/SJC HCM 122,700 ▲500K 124,100 ▲300K
AVPL/SJC ĐN 122,700 ▲500K 124,100 ▲300K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,000 11,100
Nguyên liệu 999 - HN 10,990 11,090
Cập nhật: 07/08/2025 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117,500 120,000
Hà Nội - PNJ 117,500 120,000
Đà Nẵng - PNJ 117,500 120,000
Miền Tây - PNJ 117,500 120,000
Tây Nguyên - PNJ 117,500 120,000
Đông Nam Bộ - PNJ 117,500 120,000
Cập nhật: 07/08/2025 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,480 ▲40K 11,930 ▲40K
Trang sức 99.9 11,470 ▲40K 11,920 ▲40K
NL 99.99 10,830 ▲40K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,830 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,690 ▲40K 11,990 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,690 ▲40K 11,990 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,690 ▲40K 11,990 ▲40K
Miếng SJC Thái Bình 12,270 ▲50K 12,410 ▲30K
Miếng SJC Nghệ An 12,270 ▲50K 12,410 ▲30K
Miếng SJC Hà Nội 12,270 ▲50K 12,410 ▲30K
Cập nhật: 07/08/2025 16:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,227 ▲3K 1,241 ▲3K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,227 ▲3K 12,412 ▲30K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,227 ▲3K 12,413 ▲30K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,168 1,193
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,168 1,194
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,167 1,187
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 113,025 117,525
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 81,984 89,184
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 73,674 80,874
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 65,364 72,564
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 62,159 69,359
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 42,453 49,653
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,227 ▲3K 1,241 ▲3K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,227 ▲3K 1,241 ▲3K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,227 ▲3K 1,241 ▲3K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,227 ▲3K 1,241 ▲3K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,227 ▲3K 1,241 ▲3K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,227 ▲3K 1,241 ▲3K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,227 ▲3K 1,241 ▲3K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,227 ▲3K 1,241 ▲3K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,227 ▲3K 1,241 ▲3K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,227 ▲3K 1,241 ▲3K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,227 ▲3K 1,241 ▲3K
Cập nhật: 07/08/2025 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16595 16864 17439
CAD 18556 18833 19450
CHF 31895 32276 32911
CNY 0 3570 3690
EUR 30004 30277 31302
GBP 34255 34646 35572
HKD 0 3209 3411
JPY 171 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 15312 15900
SGD 19892 20174 20700
THB 727 790 843
USD (1,2) 25950 0 0
USD (5,10,20) 25990 0 0
USD (50,100) 26019 26053 26393
Cập nhật: 07/08/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,040 26,040 26,400
USD(1-2-5) 24,998 - -
USD(10-20) 24,998 - -
GBP 34,628 34,721 35,596
HKD 3,281 3,291 3,391
CHF 32,188 32,288 33,094
JPY 175.05 175.36 182.79
THB 774.52 784.08 838.82
AUD 16,829 16,890 17,368
CAD 18,782 18,843 19,385
SGD 20,049 20,111 20,787
SEK - 2,686 2,781
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,033 4,172
NOK - 2,536 2,627
CNY - 3,605 3,702
RUB - - -
NZD 15,282 15,424 15,870
KRW 17.55 18.3 19.75
EUR 30,177 30,202 31,416
TWD 795.61 - 963.12
MYR 5,797.73 - 6,537.98
SAR - 6,869.93 7,230.34
KWD - 83,522 88,796
XAU - - -
Cập nhật: 07/08/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,040 26,050 26,390
EUR 29,955 30,075 31,201
GBP 34,376 34,514 35,500
HKD 3,275 3,288 3,394
CHF 31,937 32,065 32,971
JPY 173.68 174.38 181.76
AUD 16,705 16,772 17,313
SGD 20,037 20,117 20,664
THB 789 792 827
CAD 18,742 18,817 19,342
NZD 15,298 15,804
KRW 18.12 19.88
Cập nhật: 07/08/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26032 26032 26392
AUD 16785 16885 17450
CAD 18742 18842 19398
CHF 32145 32175 33066
CNY 0 3616.9 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4100 0
EUR 30294 30394 31170
GBP 34559 34609 35719
HKD 0 3330 0
JPY 174.84 175.84 182.35
KHR 0 6.347 0
KRW 0 18.6 0
LAK 0 1.155 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2575 0
NZD 0 15433 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2735 0
SGD 20058 20188 20918
THB 0 757.3 0
TWD 0 885 0
XAU 12000000 12000000 12410000
XBJ 10600000 10600000 12410000
Cập nhật: 07/08/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,030 26,080 26,340
USD20 26,030 26,080 26,340
USD1 26,030 26,080 26,340
AUD 16,790 16,890 18,015
EUR 30,286 30,286 31,626
CAD 18,681 18,781 20,108
SGD 20,119 20,269 20,744
JPY 175.06 176.56 181.28
GBP 34,629 34,779 35,583
XAU 12,238,000 0 12,382,000
CNY 0 3,499 0
THB 0 792 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/08/2025 16:00