“Tăng tốc” cải thiện môi trường kinh doanh trong năm 2023

05:50 | 25/01/2023

148 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Đẩy mạnh cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh thuận lợi cho thương mại, đầu tư để phát huy cơ hội phục hồi sau COVID-19 trong năm 2023.

Việt Nam cần đặt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô làm nền tảng cơ sở. Như chúng ta đã biết, những tác động rõ nét nhất từ các gói phục hồi tăng trưởng, trong đó có phục hồi kinh tế trong năm 2022 và 2023.

ổn định kinh tế vĩ mô là một trong những yếu tố giúp doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro hoặc những diễn biến không thuận lợi. Ảnh minh hoạ: Quốc Tuấn
Ổn định kinh tế vĩ mô là một trong những yếu tố giúp doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro hoặc những diễn biến không thuận lợi. Ảnh minh hoạ: Quốc Tuấn

Gói nào liên quan đến ổn định kinh tế vĩ mô đều phát huy tác động và hiệu quả. Cụ thể, giảm các loại thuế, phí xăng dầu từ đầu năm 2022, miễn giảm các loại thuế VAT đã giúp kiềm chế lạm phát.

Ổn định kinh tế vĩ mô làm cơ sở

Các chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô cho thấy, lạm phát duy trì từ 3,3-3,4% trong năm 2022, kiềm chế tỉ giá mặc dù trong năm cũng có những biến động, có thời điểm lên trên 8%. Nhưng cho đến hiện nay tỉ giá VNĐ so với USD đã được kiềm chế dưới 4%.

Mặc dù chưa có một nghiên cứu định lượng nào cơ bản nhưng chính việc ổn định kinh tế vĩ mô đã góp phần giúp Việt Nam đạt được đà phục hồi tăng trưởng và tăng trưởng cao nhất trong năm 2022 là 8,02%.

Với ý nghĩa đó, trong năm 2023 tôi đồng tình quan điểm của Chính phủ lấy ổn định kinh tế vĩ mô làm cơ sở, mặc dù đây không phải là động lực cho tăng trưởng nhưng cơ sở cho tăng trường là ổn định kinh tế vĩ mô.

Đặc biệt, chúng ta cần thận trọng và theo dõi những chỉ số có thể gây ảnh hưởng, như tỉ giá, lãi suất, lạm phát. Phải cập nhất diễn biến của những chỉ số này trong năm 2023 nhằm phục vụ cho việc ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ cho phục hồi tăng trưởng.

Năm 2023, căng thẳng về thanh khoản trong hệ thống tài chính hay tỉ giá có thể “giảm nhiệt”. Tuy nhiên, những diễn biến phức tạp về dịch bệnh và dự báo suy thoái kinh tế ở các nền kinh tế chủ chốt mà Việt Nam là bạn hàng xuất khẩu lớn thì chúng ta cũng còn rất nhiều khó khăn và thách thức.

Những yếu tố đó đặt ra câu hỏi, chúng ta phải làm sao giám sát, hỗ trợ cho khối doanh nghiệp, từ doanh nghiệp FDI đến doanh nghiệp trong nước có cơ hội phục hồi và phát triển.

Bởi, suy cho cùng động lực tăng trưởng phải đến từ doanh nghiệp, trong đó có khối doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu. Đây là động lực chính giúp chúng ta vượt qua suy thoái kinh tế trong năm 2021 khi bị COVID-19 “tấn công”, cũng như phục hồi tăng trưởng của năm 2022. Xuất khẩu vượt bậc đã hỗ trợ cho phục hồi tăng trưởng.

Tuy nhiên, trong năm 2023 sản xuất, xuất khẩu có thể gặp nhiều rủi ro. Hiện nay đã có hơn 660.000 người lao động bị mất việc làm trong khối sản xuất. Từ đầu năm 2022, theo thống kê từ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hơn 900.000 người đăng ký rút thẻ bảo hiểm xã hội.

Những con số này cho thấy, chúng ta đang có một số lượng lớn người lao động bị mất việc làm trong khu vực sản xuất. Vậy, phải có cách thức nào để duy trì hoạt động sản xuất, hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất trong năm 2023 cần tính toán kỹ lưỡng.

Nhưng theo tôi, ổn định kinh tế vĩ mô là một trong những yếu tố giúp doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro hoặc những diễn biến không thuận lợi. Những hỗ trợ khác như cạn kiệt thanh khoản do chưa nới room tín dụng của năm 2022, lãi suất tăng cao… Chính phủ cũng đã có những chỉ thị, nhưng cần có sự phối hợp nhiều hơn giữa các bộ, ngành chứ không chỉ bằng mệnh lệnh hành chính.

Đẩy mạnh cải cách thể chế

Đơn cử, vấn đề này còn liên quan đến rủi ro tín dụng ngân hàng và những chuẩn mực cho vay của hệ thống ngân hàng. Vì dù có nới room tín dụng, nhưng nếu doanh nghiệp đã rơi vào tình trạng khó khăn thì nợ xấu hoặc chuyển nợ sang nhóm nợ xấu hơn cũng sẽ rất khó để có thể vay thêm.

Doanh nghiệp không dám “đánh đổi” cơ hội từ gói vay 2% với những vấn đề sau này như thanh tra, kiểm toán… Ảnh minh hoạ: Quốc Tuấn
Doanh nghiệp không dám “đánh đổi” cơ hội từ gói vay 2% với những vấn đề sau này như thanh tra, kiểm toán… Ảnh minh hoạ: Quốc Tuấn

Hoặc chi phí tuân thủ với các quy định ràng buộc khiến doanh nghiệp không dám vay, ngân hàng cũng không dám cho vay vì rủi ro sẽ rất lớn khi các quy định của pháp luật hiện nay vẫn đang rất chặt chẽ.

Kể cả gói hỗ trợ 2%, rất nhiều doanh nghiệp kỳ vọng sau khi nới room gói này sẽ được “bung ra” trong những tháng cuối năm 2022 và đầu năm 2023. Tuy nhiên, có rất nhiều quan điểm "e ngại”, những gói liên quan đến ngân sách nhà nước vẫn còn có những ràng buộc và rào cản nhất định.

Các rào cản này không những tạo ra chi phí tuân thủ, chi phí thực thi mà thậm chí là những “chi phí chìm”. Doanh nghiệp không dám “đánh đổi” cơ hội từ gói vay 2% với những vấn đề sau này như thanh tra, kiểm toán… Điều đó dẫn đến mất cơ hội và trở thành “chi phí chìm” trong hoạt động tìm kiếm nguồn vốn giá rẻ của các doanh nghiệp, mặc dù rất chính đáng và cần thiết.

Do đó, để giải quyết được bài toán tìm kiếm động lực giúp doanh nghiệp phát triển, ở đây không chỉ có doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Nhìn rộng ra chúng ta sẽ thấy khối dịch vụ mặc dù có cơ hội nhưng vẫn chưa thể phát triển nhanh và mạnh mẽ.

Bởi, trong khối dịch vụ có rất nhiều khu vực phi chính thức. Nhưng việc hỗ trợ người lao động ở khu vực này vẫn chưa đạt yêu cầu. Các gói hỗ trợ người lao động đã được giải ngân, nhưng đối với khu vực phi chính thức phần lớn vẫn chưa được hưởng lợi.

Trong năm 2023, mặc dù Chính phủ có sự quan tâm và yêu cầu các chính sách cũng phải hỗ trợ khối hộ kinh doanh, hợp tác xã… Tuy nhiên, sự chặt chẽ, quy tắc, quy định của pháp luật quá ngặt nghèo, đến doanh nghiệp chính thức còn tiếp cận khó khăn, thì đối với hộ kinh doanh ở khu vực phi chính thức lại càng khó khăn hơn.

Qua đây dẫn đến câu chuyện, mặc dù nền kinh tế đã mở cửa, thương mại dịch vụ có sự “bùng nổ” trên nền tăng trưởng thấp của năm 2021, nhưng vẫn chưa đạt như kỳ vọng.

Như vậy, vấn đề cốt lõi ở đây là cải cách thể chế, tạo thuận lợi cho thương mại, đầu tư. Xem xét, đánh giá lại môi trường kinh doanh theo hướng tự do, cởi mở hơn, tránh sự can thiệp “giật cục” của các cơ quan quản lý nhà nước vào thị trường bằng các mệnh lệnh hành chính.

Do đó, cần đẩy mạnh cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh thuận lợi cho thương mại, đầu tư để phát huy cơ hội phục hồi sau COVID-19 trong năm 2023. Nếu vẫn còn những rào cản để làm tăng chi phí tuân thủ, chi phí thực thi chính sách và thể chế quá cao sẽ khiến các doanh nghiệp lại càng khó hơn trong bối cảnh còn có nhiều biến động của tình hình kinh tế thế giới cũng như ở Việt Nam.

Thay đổi nhận thức từ “cú sốc” COVID-19

COVID-19 là “cú sốc” chưa có trong tiền lệ với các nước trên thế giới và Việt Nam. Việc ứng phó và thích ứng từ người dân, doanh nghiệp đến chính phủ đều gặp những “trục trặc” nhất định. Khó khăn do đại dịch COVID-19 gây ra, cùng với những biến đổi khác trên thế giới đã làm cho nền kinh tế được dự đoán sẽ còn suy thoái trong năm 2023.

Khó khăn do đại dịch Covid-19 gây ra, cùng với những biến đổi khác trên thế giới đã làm cho nền kinh tế được dự đoán sẽ còn suy thoái trong năm 2023. Ảnh minh hoạ: Quốc Tuấn
Khó khăn do đại dịch COVID-19 gây ra, cùng với những biến đổi khác trên thế giới đã làm cho nền kinh tế được dự đoán sẽ còn suy thoái trong năm 2023. Ảnh minh hoạ: Quốc Tuấn

Trước đây, nhiều chuyên gia kinh tế dự báo nền kinh tế sẽ phục hồi nhanh chóng theo hình chữ V. Đến năm 2020 có nhiều nước “hoan hỷ” cho rằng đã khắc phục xong và kinh tế thế giới quay trở lại với trạng thái bình thường. Tuy nhiên, COVID-19 đã tác động “nặng hơn” đáng kể với những “hiệu ứng phụ”, là những gói chính sách của tất cả các Chính phủ trên thế giới đã khiến cho việc khắc phục hậu quả lâu dài hơn rất nhiều.

Đơn cử, lạm phát tăng cao, đình lạm, suy thoái kinh tế. Các dự báo tăng trưởng đều “hạ điểm” từ 1 đến 1,5 điểm phần trăm, và còn “rất lâu”, thậm chí có nhiều dự báo phải đến hết năm 2025 kinh tế thế giới mới có thể quay trở lại trạng thái bình thường.

Đối với những thể chế của những nước có nền kinh tế thị trường chưa hoàn chỉnh, còn nhiều bất cập về môi trường kinh doanh thì sự tác động của COVID-19 đã làm bộc lộ ra những yếu kém trong môi trường thể chế, cũng như cách quản lý điều hành.

Từ trong đại dịch COVID-19 cho chúng ta thấy rất rõ, những phương án quản lý điều hành, khả năng ứng phó của các doanh nghiệp có bề dày nền tảng tốt về năng lực cạnh tranh thì mới có thể khắc phục được một phần rủi ro, cũng như “cú sốc” từ bên ngoài.

Với nền kinh tế của Việt Nam, chúng ta mới xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, thể chế, chính sách chưa hoàn chỉnh theo đúng cơ chế kinh tế thị trường tự do. Như vậy, cả phía nhà nước và doanh nghiệp ứng xử khi có dấu hiệu bất ổn chưa theo cơ chế thị trường đã bộc lộ điểm yếu. Chính điểm yếu này là nguy cơ tiềm ẩn gây ra rủi ro đổ vỡ.

Ví dụ, năm 2022 là sự bất ổn thị trường trái phiếu, chứng khoán, bất động sản… Đây là biểu hiện của sự quản lý thế chế của chúng ta còn nhiều điều chưa theo kịp với kinh tế thị trường. Hành vi của doanh nghiệp chưa thích ứng được và chưa theo đúng “chuẩn” của nền kinh tế thị trường.

Như vậy, trong thời gian tới bên cạnh việc chú trọng đến những chính sách trực tiếp hỗ trợ phục hồi, tăng trưởng. Để nhìn về tương lai lâu dài thì cải cách thể chế và tạo dựng môi trường kinh doanh theo đúng kinh tế thị trường là nền tảng tốt để Việt Nam phát triển bền vững.

Thích ứng linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành

Đặc biệt, COVID-19 đã làm thay đổi nhận thức rất rõ, đó là Chính phủ quyết tâm đồng hành, lắng nghe và thích ứng với những diễn biến, không “cứng nhắc” trong chỉ đạo điều hành. Chính phủ đã chuyển hướng rất kịp thời từ chủ trương "Zero Covid" sang thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 ngay trong năm 2021. Năm 2022, để triển khai được các gói hỗ trợ phục hồi tăng trưởng, Chính phủ đã liên tục có những chỉ đạo sát sao, lắng nghe báo cáo.

Chính phủ đã chuyển hướng rất kịp thời từ chủ trương
Chính phủ đã chuyển hướng rất kịp thời từ chủ trương "Zero COVID-19" sang thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 ngay trong năm 2021. Ảnh minh hoạ: Quốc Tuấn

Đã có nhiều đoàn kiểm tra, giám sát của Quốc hội, Chính phủ đến từng địa phương nhằm đốc thúc, tiếp thu và giải quyết những bất cập, khó khăn của những đối tượng bị tác động, như người lao động, các địa phương bị dịch bệnh tấn công nặng nề, nhóm doanh nghiệp bị ảnh hưởng…

Một vấn đề khác Chính phủ cũng đã nhận ra từ đại dịch là khả năng doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu. Nếu chúng ta không chủ động, không có tư duy phát triển đồng bộ và hệ thống, đặc biệt với doanh nghiệp trong nước “mạnh về chất” để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Từ đó, đã có chủ trương xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ để chống lại những cú sốc từ bên ngoài, trong đó có dịch bệnh như COVID-19. Đây là sự thay đổi lớn về mặt nhận thức. Dựa trên cơ sở đó, chúng ta cũng đã có sự kế thừa từ thành quả cách mạng 4.0, những xu thế kinh tế và tăng trưởng kinh tế mới, như kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi số…

Nhận thức đã có, nhưng triển khai còn chậm và chưa cùng “vòng quay” nhận thức. Trên thực tế vẫn còn “khoảng cách”, có thể do COVID-19 hoặc một vấn đề yếu kém nội tại nào đó làm “nảy sinh” sự “chậm chạp”. Trong năm 2023, tôi kỳ vọng sớm giải quyết được vấn đề này. Bên cạnh công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng thì cũng phải tạo được hành lang để triển khai nhận thức mới, chính sách mới đi vào cuộc sống.

(*) Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và chính sách (VEPR), Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Thủ tướng: Xây dựng môi trường kinh doanh thông thoáng để huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triểnThủ tướng: Xây dựng môi trường kinh doanh thông thoáng để huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển
Tăng cường giám sát kinh doanh xăng dầu dịp Tết Nguyên đán 2023Tăng cường giám sát kinh doanh xăng dầu dịp Tết Nguyên đán 2023
Công ty kinh doanh dầu mỏ lớn nhất Trung Quốc Công ty kinh doanh dầu mỏ lớn nhất Trung Quốc "điên cuồng mua vào"

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,500 ▲500K 120,000 ▲1000K
AVPL/SJC HCM 117,500 ▲500K 120,000 ▲1000K
AVPL/SJC ĐN 117,500 ▲500K 120,000 ▲1000K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,950 ▲100K 11,400 ▲100K
Nguyên liệu 999 - HN 10,940 ▲100K 11,390 ▲100K
Cập nhật: 13/06/2025 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.500 ▲900K 116.200 ▲1000K
TPHCM - SJC 117.500 ▲500K 120.000 ▲1000K
Hà Nội - PNJ 113.500 ▲900K 116.200 ▲1000K
Hà Nội - SJC 117.500 ▲500K 120.000 ▲1000K
Đà Nẵng - PNJ 113.500 ▲900K 116.200 ▲1000K
Đà Nẵng - SJC 117.500 ▲500K 120.000 ▲1000K
Miền Tây - PNJ 113.500 ▲900K 116.200 ▲1000K
Miền Tây - SJC 117.500 ▲500K 120.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.500 ▲900K 116.200 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - SJC 117.500 ▲500K 120.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.500 ▲900K
Giá vàng nữ trang - SJC 117.500 ▲500K 120.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.500 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.500 ▲900K 116.200 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.500 ▲900K 116.200 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.800 ▲800K 115.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.690 ▲800K 115.190 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.980 ▲800K 114.480 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.750 ▲790K 114.250 ▲790K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.130 ▲600K 86.630 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.100 ▲470K 67.600 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.620 ▲340K 48.120 ▲340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.220 ▲740K 105.720 ▲740K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.980 ▲480K 70.480 ▲480K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.600 ▲520K 75.100 ▲520K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.050 ▲540K 78.550 ▲540K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.890 ▲300K 43.390 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.700 ▲260K 38.200 ▲260K
Cập nhật: 13/06/2025 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,240 ▲100K 11,690 ▲100K
Trang sức 99.9 11,230 ▲100K 11,680 ▲100K
NL 99.99 10,835 ▲100K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,835 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 ▲100K 11,750 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 ▲100K 11,750 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 ▲100K 11,750 ▲100K
Miếng SJC Thái Bình 11,750 ▲50K 12,000 ▲100K
Miếng SJC Nghệ An 11,750 ▲50K 12,000 ▲100K
Miếng SJC Hà Nội 11,750 ▲50K 12,000 ▲100K
Cập nhật: 13/06/2025 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16370 16638 17213
CAD 18599 18876 19492
CHF 31418 31797 32434
CNY 0 3530 3670
EUR 29413 29684 30712
GBP 34510 34902 35832
HKD 0 3190 3393
JPY 174 178 184
KRW 0 18 19
NZD 0 15355 15945
SGD 19783 20065 20583
THB 719 782 835
USD (1,2) 25805 0 0
USD (5,10,20) 25845 0 0
USD (50,100) 25873 25907 26223
Cập nhật: 13/06/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,863 25,863 26,223
USD(1-2-5) 24,828 - -
USD(10-20) 24,828 - -
GBP 34,799 34,893 35,778
HKD 3,259 3,269 3,368
CHF 31,733 31,831 32,641
JPY 178.08 178.4 185.93
THB 765.22 774.67 828.83
AUD 16,581 16,641 17,106
CAD 18,780 18,841 19,393
SGD 19,914 19,976 20,654
SEK - 2,689 2,782
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,959 4,095
NOK - 2,560 2,649
CNY - 3,579 3,676
RUB - - -
NZD 15,303 15,445 15,896
KRW 17.58 18.33 19.79
EUR 29,608 29,632 30,860
TWD 795.57 - 963.17
MYR 5,733.92 - 6,472.71
SAR - 6,817.24 7,177.66
KWD - 82,865 88,106
XAU - - -
Cập nhật: 13/06/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,870 25,880 26,220
EUR 29,490 29,608 30,726
GBP 34,694 34,833 35,828
HKD 3,254 3,267 3,372
CHF 31,692 31,819 32,744
JPY 177.74 178.45 185.89
AUD 16,569 16,636 17,169
SGD 19,988 20,068 20,616
THB 782 785 820
CAD 18,786 18,861 19,391
NZD 15,472 15,980
KRW 18.24 20.09
Cập nhật: 13/06/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25920 25920 26220
AUD 16546 16646 17219
CAD 18784 18884 19441
CHF 31659 31689 32578
CNY 0 3594.3 0
CZK 0 1168 0
DKK 0 4040 0
EUR 29698 29798 30571
GBP 34820 34870 35972
HKD 0 3320 0
JPY 177.44 178.44 184.97
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6390 0
NOK 0 2610 0
NZD 0 15465 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2765 0
SGD 19941 20071 20802
THB 0 748.6 0
TWD 0 880 0
XAU 11400000 11400000 12000000
XBJ 10000000 10000000 12000000
Cập nhật: 13/06/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,890 25,940 26,200
USD20 25,890 25,940 26,200
USD1 25,890 25,940 26,200
AUD 16,595 16,745 17,815
EUR 29,742 29,892 31,068
CAD 18,725 18,825 20,141
SGD 20,018 20,168 20,645
JPY 177.87 179.37 184.02
GBP 34,903 35,053 35,844
XAU 0 117,480,000 0
CNY 0 3,479 0
THB 0 784 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 13/06/2025 20:00