Thị trường chứng khoán năm 2023: Sớm tìm lại điểm cân bằng

10:39 | 15/02/2023

6,171 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam trải qua năm 2022 với nhiều thăng trầm. Chỉ số VN-Index liên tiếp lập đỉnh ngay từ những phiên giao dịch đầu năm, nhưng sau đó giảm sâu cùng với thanh khoản ở mức rất thấp. TTCK năm 2023 sẽ phải tìm lại được điểm cân bằng.
Thị trường chứng khoán năm 2023: Sớm tìm lại điểm cân bằng
Giá dầu dự báo ở mức cao được đánh giá sẽ hỗ trợ triển vọng của nhóm cổ phiếu Dầu khí

Tiếp nối sự hưng phấn trong năm 2021, đà tăng của TTCK tiếp tục được duy trì trong những tháng đầu năm 2022, chỉ số VN-Index liên tục lập đỉnh và đạt mức cao nhất vào phiên ngày 6-1, đạt 1.528,27 điểm.

Tuy nhiên, sau đó thị trường bất ngờ giảm mạnh trước những diễn biến bất ngờ về cuộc xung đột Nga - Ukraine vào cuối tháng 2. Chỉ trong quý II/2022, VN-Index sụt giảm hơn 20% từ 1.492,15 điểm về 1.197,6 điểm. Thanh khoản thị trường cũng sụt giảm mạnh khi giá trị giao dịch bình quân quý II chỉ đạt hơn 18,6 nghìn tỉ đồng/phiên, giảm 36% so với quý I.

Đến quý IV, các chỉ số tiếp tục giảm sâu, có thời điểm lùi về 911,9 điểm - mức thấp nhất kể từ đầu năm - do tâm lý thận trọng của nhà đầu tư trước những bất ổn và triển vọng kém tích cực về kinh tế - chính trị thế giới và có sự đồng pha với diễn biến trên TTCK thế giới. Đặc biệt, trước động thái tăng lãi suất mới nhất của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, TTCK đã có những phiên giảm rất mạnh.

Những “mảng xám”

Kinh tế Việt Nam năm 2022 đã hồi phục mạnh sau đại dịch Covid-19 khi người dân, doanh nghiệp quen thuộc với trạng thái “bình thường mới”. Tăng trưởng kinh tế năm 2022 ước đạt trên 7% và lạm phát được kiểm soát tốt, đạt mục tiêu dưới 4% của Quốc hội.

Tác động từ những sự kiện quốc tế như chiến tranh Nga - Ukraine, Trung Quốc kéo dài thời gian phong tỏa, duy trì chính sách “Zero Covid” và lạm phát tăng nóng trên quy mô toàn cầu dẫn tới việc mặt bằng lãi suất được nâng lên rất nhanh đã khiến cho kinh tế Việt Nam, một nền kinh tế có độ mở cao, dù có nội lực vững vàng, cũng không thể tránh khỏi bị cuốn vào đà suy thoái chung. Kinh tế Việt Nam đã có những biểu hiện suy yếu ngay trong quý IV/2022 khi tăng trưởng giảm tốc. Ngành sản xuất mở rộng chậm hơn khi số lượng đơn hàng mới cả trong nước và xuất khẩu đều giảm. Tỷ giá biến động mạnh và lãi suất được điều chỉnh mạnh, dồn dập trong thời gian ngắn đã khiến cho môi trường kinh doanh trở nên kém thuận lợi hơn rất nhiều so với đầu năm.

Đó là dấu hiệu cho thấy bức tranh kinh tế vĩ mô năm 2023 giảm bớt những mảng màu tươi sáng. GDP năm 2023 có thể sẽ không thể giữ được tốc độ tăng trưởng cao khi mức nền so sánh của năm 2022 đã cao hơn.

Thị trường chứng khoán năm 2023: Sớm tìm lại điểm cân bằng
TTCK được dự báo sẽ có sự cải thiện đáng kể trong nửa cuối năm 2023

TTCK tìm lại điểm cân bằng

Bất chấp chỉ tiêu tăng trưởng tích cực của năm 2022, thị trường tài chính lại có diễn biến ngược chiều với nền kinh tế.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp đối mặt với rủi ro lớn khi nhiều doanh nghiệp bất động sản đối mặt với nguy cơ không thể thanh toán lãi và gốc trái phiếu đến hạn. Mọi dòng tiền cho lĩnh vực bất động sản cùng lúc bị thắt chặt khiến các doanh nghiệp càng khó khăn hơn trong việc tìm kiếm các nguồn trả nợ.

Tuy nhiên, TTCK sẽ sớm tìm lại được điểm cân bằng và diễn biến sát với nền kinh tế thực hơn khi đã phản ánh đầy đủ các thông tin tiêu cực và giá các tài sản đầu cơ được điều chỉnh về đúng với giá trị và tiềm năng thực tế. VN-Index nhiều khả năng sẽ đi ngang trong biên độ khoảng 900-1.100 điểm trong những tháng đầu năm 2023, phản ánh bức tranh kinh tế năm 2023 không còn tăng trưởng mạnh và có nhiều yếu tố rủi ro tiềm ẩn.

Chỉ số VN-Index sẽ có sự cải thiện đáng kể trong nửa cuối năm 2023 và tiến vào trong vùng 1.200 điểm khi tăng trưởng lợi nhuận ròng toàn thị trường sẽ khởi sắc hơn nhờ các yếu tố: Tốc độ tăng của lãi suất có thể chậm dần kể từ quý II/2023 và ổn định hơn về cuối năm 2023. Giá nguyên vật liệu sản xuất được dự báo sẽ giảm dần trong năm 2023 do kinh tế thế giới suy thoái khiến cho nhu cầu những loại hàng hóa đầu vào và hàng hóa trung gian giảm. Lạm phát nhờ vậy sẽ tăng chậm hơn so với năm 2022. Trong bối cảnh lạm phát tại Mỹ đạt đỉnh và có dấu hiệu hạ nhiệt, nhiều khả năng FED sẽ giảm tốc độ tăng lãi suất và lãi suất mục tiêu tới cuối năm 2023 sẽ đạt khoảng 5-5,25%, tương đương với mức tăng 125 điểm cơ bản so với hiện tại và việc Trung Quốc mở cửa trở lại sẽ tạo thêm động lực. Đà tăng trưởng lợi nhuận ròng tích cực của các doanh nghiệp sẽ là tín hiệu tốt cho sự phục hồi của TTCK.

Ngành Dầu khí - điểm tựa vững chắc của quốc gia

Hoạt động của ngành Dầu khí phụ thuộc nhiều vào biến động của giá dầu. Thị trường dầu khí đã trải qua 2 năm biến động mạnh kể từ thời điểm giá dầu sụt giảm kỷ lục trước sự bùng phát của đại dịch Covid-19 hồi tháng 3-2020.

Trong nửa đầu năm 2022, giá dầu đã tăng mạnh và đạt “đỉnh” trong 14 năm qua. Giá dầu Brent có thời điểm giao dịch ở mức gần 140 USD/thùng hồi đầu tháng 3-2022 giúp nhiều doanh nghiệp dầu khí lãi lớn. Tuy nhiên, sau đó giá dầu đã có một nhịp điều chỉnh mạnh và quay về ngưỡng 90 USD/thùng tại thời điểm cuối quý III, lợi nhuận của các doanh nghiệp dầu khí cũng theo đó bắt đầu phân hóa.

Giá dầu thô kỳ hạn trung bình trong năm 2022 tăng mạnh trong bối cảnh lo ngại về sự suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu, cùng nguồn cung sụt giảm do cuộc chiến giữa Nga - Ukraine và chính sách sản lượng thận trọng từ Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ và đối tác (OPEC+).

Nguồn cung dầu thô thế giới đã quay về gần mức trước dịch Covid-19 trong khi nhu cầu được dự báo sẽ giảm trong bối cảnh triển vọng kinh tế thế giới trong năm 2022 và 2023 không mấy tươi sáng do lạm phát, dịch bệnh và căng thẳng địa chính trị leo thang. Sự suy giảm của nhu cầu được bù đắp một phần bởi xu hướng chuyển dịch từ sử dụng khí sang dầu khiến cân bằng cung - cầu không chênh lệch và động thái cắt giảm sản lượng từ từ của OPEC+. Vì vậy, dù lo ngại nhu cầu giảm, phần lớn các tổ chức dự báo vẫn đưa ra kịch bản giá dầu Brent bình quân năm 2023 sẽ trong khoảng 85-90 USD/thùng.

Sự ổn định của giá dầu là tiền đề giúp các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu phục hồi mạnh từ mức nền thấp của năm 2022, song ngược lại, có thể khiến lợi nhuận doanh nghiệp lọc hóa dầu giảm đáng kể.

Chỉ số VN-Index sẽ có sự cải thiện đáng kể trong nửa cuối năm 2023 và tiến vào trong vùng 1.200 điểm khi tăng trưởng lợi nhuận ròng toàn thị trường sẽ khởi sắc hơn.
“Bắt mạch” chứng khoán 2023“Bắt mạch” chứng khoán 2023
Ngành Dầu khí sẽ là điểm sáng của thị trường chứng khoán 2023Ngành Dầu khí sẽ là điểm sáng của thị trường chứng khoán 2023
Các chủ đề đầu tư nổi bật trong năm 2023Các chủ đề đầu tư nổi bật trong năm 2023

Minh Châu

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,500 ▲500K 120,000 ▲1000K
AVPL/SJC HCM 117,500 ▲500K 120,000 ▲1000K
AVPL/SJC ĐN 117,500 ▲500K 120,000 ▲1000K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,950 ▲100K 11,400 ▲100K
Nguyên liệu 999 - HN 10,940 ▲100K 11,390 ▲100K
Cập nhật: 13/06/2025 21:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.500 ▲900K 116.200 ▲1000K
TPHCM - SJC 117.500 ▲500K 120.000 ▲1000K
Hà Nội - PNJ 113.500 ▲900K 116.200 ▲1000K
Hà Nội - SJC 117.500 ▲500K 120.000 ▲1000K
Đà Nẵng - PNJ 113.500 ▲900K 116.200 ▲1000K
Đà Nẵng - SJC 117.500 ▲500K 120.000 ▲1000K
Miền Tây - PNJ 113.500 ▲900K 116.200 ▲1000K
Miền Tây - SJC 117.500 ▲500K 120.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.500 ▲900K 116.200 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - SJC 117.500 ▲500K 120.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.500 ▲900K
Giá vàng nữ trang - SJC 117.500 ▲500K 120.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.500 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.500 ▲900K 116.200 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.500 ▲900K 116.200 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.800 ▲800K 115.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.690 ▲800K 115.190 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.980 ▲800K 114.480 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.750 ▲790K 114.250 ▲790K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.130 ▲600K 86.630 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.100 ▲470K 67.600 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.620 ▲340K 48.120 ▲340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.220 ▲740K 105.720 ▲740K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.980 ▲480K 70.480 ▲480K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.600 ▲520K 75.100 ▲520K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.050 ▲540K 78.550 ▲540K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.890 ▲300K 43.390 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.700 ▲260K 38.200 ▲260K
Cập nhật: 13/06/2025 21:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,240 ▲100K 11,690 ▲100K
Trang sức 99.9 11,230 ▲100K 11,680 ▲100K
NL 99.99 10,835 ▲100K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,835 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 ▲100K 11,750 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 ▲100K 11,750 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 ▲100K 11,750 ▲100K
Miếng SJC Thái Bình 11,750 ▲50K 12,000 ▲100K
Miếng SJC Nghệ An 11,750 ▲50K 12,000 ▲100K
Miếng SJC Hà Nội 11,750 ▲50K 12,000 ▲100K
Cập nhật: 13/06/2025 21:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16370 16638 17213
CAD 18599 18876 19492
CHF 31418 31797 32434
CNY 0 3530 3670
EUR 29413 29684 30712
GBP 34510 34902 35832
HKD 0 3190 3393
JPY 174 178 184
KRW 0 18 19
NZD 0 15355 15945
SGD 19783 20065 20583
THB 719 782 835
USD (1,2) 25805 0 0
USD (5,10,20) 25845 0 0
USD (50,100) 25873 25907 26223
Cập nhật: 13/06/2025 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,863 25,863 26,223
USD(1-2-5) 24,828 - -
USD(10-20) 24,828 - -
GBP 34,799 34,893 35,778
HKD 3,259 3,269 3,368
CHF 31,733 31,831 32,641
JPY 178.08 178.4 185.93
THB 765.22 774.67 828.83
AUD 16,581 16,641 17,106
CAD 18,780 18,841 19,393
SGD 19,914 19,976 20,654
SEK - 2,689 2,782
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,959 4,095
NOK - 2,560 2,649
CNY - 3,579 3,676
RUB - - -
NZD 15,303 15,445 15,896
KRW 17.58 18.33 19.79
EUR 29,608 29,632 30,860
TWD 795.57 - 963.17
MYR 5,733.92 - 6,472.71
SAR - 6,817.24 7,177.66
KWD - 82,865 88,106
XAU - - -
Cập nhật: 13/06/2025 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,870 25,880 26,220
EUR 29,490 29,608 30,726
GBP 34,694 34,833 35,828
HKD 3,254 3,267 3,372
CHF 31,692 31,819 32,744
JPY 177.74 178.45 185.89
AUD 16,569 16,636 17,169
SGD 19,988 20,068 20,616
THB 782 785 820
CAD 18,786 18,861 19,391
NZD 15,472 15,980
KRW 18.24 20.09
Cập nhật: 13/06/2025 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25920 25920 26220
AUD 16546 16646 17219
CAD 18784 18884 19441
CHF 31659 31689 32578
CNY 0 3594.3 0
CZK 0 1168 0
DKK 0 4040 0
EUR 29698 29798 30571
GBP 34820 34870 35972
HKD 0 3320 0
JPY 177.44 178.44 184.97
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6390 0
NOK 0 2610 0
NZD 0 15465 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2765 0
SGD 19941 20071 20802
THB 0 748.6 0
TWD 0 880 0
XAU 11400000 11400000 12000000
XBJ 10000000 10000000 12000000
Cập nhật: 13/06/2025 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,890 25,940 26,200
USD20 25,890 25,940 26,200
USD1 25,890 25,940 26,200
AUD 16,595 16,745 17,815
EUR 29,742 29,892 31,068
CAD 18,725 18,825 20,141
SGD 20,018 20,168 20,645
JPY 177.87 179.37 184.02
GBP 34,903 35,053 35,844
XAU 0 117,480,000 0
CNY 0 3,479 0
THB 0 784 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 13/06/2025 21:45