Trung hoà Carbon: Đánh tráo khái niệm hay giải pháp xanh đúng nghĩa?

10:57 | 25/01/2022

9,618 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Xu thế chuyển đổi năng lượng, cam kết không phát thải ròng khí nhà kính và sức ép gia tăng từ các nhà đầu tư là những nguyên nhân khiến các công ty dầu khí phải cho ra đời những lô hàng “trung hòa carbon”.
Trung hoà Carbon: Đánh tráo khái niệm hay giải pháp xanh đúng nghĩa?
Để đạt mục tiêu Net Zero, nhân loại phải đầu tư vào năng lượng sạch và cơ sở hạ tầng năng lượng phải tăng gấp 3 lần vào năm 2030

Đánh tráo khái niệm?

Các lô hàng được rao bán là những thùng dầu và khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) “trung hòa carbon”. Thực tế, khách hàng của các công ty dầu khí này cũng chịu sức ép từ các nhà đầu tư, liên quan cam kết cắt giảm carbon, từ đó, buộc phải mua những nguồn năng lượng có lượng phát thải thấp.

Theo các công ty năng lượng, cho đến khi các công nghệ thu giữ và lưu trữ carbon (CCS) đạt được những bước tiến vượt bậc về quy mô lẫn chất lượng, thì việc bù đắp carbon dựa trên tự nhiên có thể là biện pháp tốt nhất để giảm phát thải.

Do đó, đến thời điểm hiện tại, dầu thô và khí đốt với khái niệm “trung hòa carbon” đang được triển khai theo phương thức bù đắp carbon. Trong đó, khách hàng và nhà cung cấp sẽ trả tiền để tham gia vào các dự án giảm phát thải ở bất kỳ đâu trên thế giới. Khái niệm “trung hòa carbon” trong trường hợp này được hiểu là người bán, người mua, hoặc cả hai, đã chi trả một khoản tiền nhằm giảm lượng khí thải, cụ thể là tham gia vào một dự án tái tạo năng lượng.

Cách thức bù đắp carbon đó vấp phải rất nhiều chỉ trích từ các nhà hoạt động môi trường. Họ cho rằng đó đơn thuần là “màn PR” trá hình từ một ngành công nghiệp, thực chất vẫn né tránh hành động nhằm cứu vãn hành tinh.

Chưa kể, thị trường bù đắp carbon đang phát triển thiếu nhất quán cũng như không có một bộ quy chuẩn cụ thể. Không có một chế tài nào buộc các công ty năng lượng phải tiết lộ thông tin về quá trình bù đắp lượng khí thải carbon, cũng như không có “thước đo” chuyên biệt cho vấn đề này.

Cuộc đua trung hòa carbon

Nhiều công ty dầu khí tên tuổi gần đây gây chú ý khi thông báo về việc giao những lô hàng dầu và LNG trung hòa carbon.

Hồi tháng 1-2021, Công ty Occidental của Mỹ đã giao lô dầu trung hòa carbon đầu tiên trên thế giới. Tháng 4-2021, Công ty Lundin Energy (trụ sở tại Thụy Điển) đã bán loại dầu thô được chứng nhận không phát thải ròng đầu tiên trên thế giới từ một mỏ dầu ngoài khơi Na Uy.

Tháng 6-2021, Lundin Energy còn tuyên bố tất cả các thùng dầu được công ty bán từ Johan Sverdrup - mỏ lớn nhất Tây Âu ngoài khơi Na Uy - sẽ được chứng nhận khai thác trung hòa carbon. Lundin Energy tiếp tục bù đắp lượng khí thải tồn dư ròng bằng cách sử dụng các dự án thu giữ carbon tự nhiên được chứng nhận bởi Tiêu chuẩn carbon đã được xác minh (VCS).

Hãng TotalEnergies và Shell cũng đang bán LNG trung hòa carbon, chủ yếu cho các khách hàng ở khu vực châu Á.

Trung hoà Carbon: Đánh tráo khái niệm hay giải pháp xanh đúng nghĩa?
Thu gom, lưu trữ carbon giúp giảm khí thải, nhưng không phải là giải pháp duy nhất

Đâu là giải pháp xanh đúng nghĩa?

Shell - một trong những ông lớn của ngành dầu khí thế giới - đã đưa ra lộ trình cụ thể về phát thải. Shell sẽ cố gắng tránh phát thải nếu có thể, giảm phát thải ở những nơi không thể tránh và bù đắp phát thải khi không thể tránh hoặc giảm.

Trong bối cảnh ngày càng có nhiều cách thức để tránh và giảm phát thải trên quy mô lớn, các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp dầu khí cần hợp tác với nhau trên quy mô toàn cầu để sử dụng tín chỉ carbon chất lượng cao, nhằm bù đắp cho lượng phát thải khí nhà kính (GHG) dọc theo chuỗi giá trị LNG vốn khó cắt giảm. Shell cũng tuyên bố đã cung cấp LNG trung hòa carbon trong vài năm qua.

“Nó không phải là thuốc chữa bách bệnh và chúng tôi sẽ không gọi nó là xanh” - Mehdi Chennoufi, một lãnh đạo cấp cao của Shell phụ trách lĩnh vực cung cấp và kinh doanh LNG, nói với Thời báo phố Wall. Ông Mehdi lưu ý rằng, việc bù đắp carbon chỉ nên là giải pháp cuối cùng nếu không thể tránh hoặc giảm được khí thải.

Tuy nhiên, các nhóm hoạt động vì môi trường và phi lợi nhuận phản đối cách tiếp cận này. Họ cho rằng, bù đắp carbon là chiến thuật “quảng cáo xanh” tinh vi của những công ty dầu khí và cáo buộc các công ty này đang né tránh hệ lụy mà họ gây ra, đặc biệt là vấn đề biến đổi khí hậu.

Jennifer Morgan - Giám đốc điều hành của Greenpeace International - hồi tháng 9-2021 đã chỉ trích các ông lớn dầu khí, trong đó có Shell và ExxonMobil, vì “lời nói dối nguy hiểm về khí hậu” liên quan việc bù đắp carbon.

Vấn đề tiêu chuẩn hóa

Thực tế cho thấy, việc thiếu các tiêu chuẩn trong thị trường bù đắp carbon đã làm gia tăng sự phản đối từ những người chỉ trích hydrocarbon “trung hòa carbon”.

“Thị trường này hiện đang hoạt động trong bóng tối” - ông Mark Carney, cựu Thống đốc Ngân hàng Trung ương Anh và hiện là đặc phái viên Liên Hiệp Quốc về hành động khí hậu - nói với tờ Financial Times hồi đầu năm 2022.

Năm 2021, ông Carney sáng lập “Nhóm đặc nhiệm về mở rộng quy mô thị trường carbon tự nguyện” nhằm tạo ra một thị trường tự nguyện có quy mô và tính toàn vẹn cao để kinh doanh tín chỉ carbon. Mục tiêu cuối cùng mà nhóm đặc nhiệm hướng tới là bảo đảm thị trường carbon tự nguyện tiệm cận giảm phát thải khí nhà kính, cũng như đẩy nhanh quá trình chuyển đổi để đạt mục tiêu không phát thải ròng.

Các hãng khai thác dầu khí vẫn sẽ tiếp tục bán những sản phẩm mà họ quảng cáo là dầu và khí đốt “trung hòa carbon” cho một lượng lớn những khách hàng sẵn sàng mua chúng. Song, những hoài nghi về bản chất “trung hòa” của nguồn cung năng lượng này sẽ tiếp tục tồn tại, trong bối cảnh một thị trường thiếu tính minh bạch và không tiêu chuẩn hóa.

Minh Quân

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 122,000 ▲6000K 124,000 ▲6000K
AVPL/SJC HCM 122,000 ▲6000K 124,000 ▲6000K
AVPL/SJC ĐN 122,000 ▲6000K 124,000 ▲6000K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,700 ▲370K 11,810 ▲200K
Nguyên liệu 999 - HN 11,690 ▲370K 11,800 ▲200K
Cập nhật: 22/04/2025 17:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
TPHCM - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Hà Nội - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Hà Nội - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Đà Nẵng - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Đà Nẵng - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Miền Tây - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Miền Tây - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 117.000 ▲3500K 119.500 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 116.880 ▲3500K 119.380 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 116.140 ▲3470K 118.640 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 115.910 ▲3470K 118.410 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 82.280 ▲2630K 89.780 ▲2630K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 62.560 ▲2050K 70.060 ▲2050K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 42.360 ▲1450K 49.860 ▲1450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 107.060 ▲3200K 109.560 ▲3200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 65.550 ▲2140K 73.050 ▲2140K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 70.330 ▲2280K 77.830 ▲2280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 73.910 ▲2380K 81.410 ▲2380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 37.460 ▲1310K 44.960 ▲1310K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 32.090 ▲1160K 39.590 ▲1160K
Cập nhật: 22/04/2025 17:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,520 ▲300K 12,040 ▲250K
Trang sức 99.9 11,510 ▲300K 12,030 ▲250K
NL 99.99 11,520 ▲300K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,520 ▲300K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,750 ▲300K 12,050 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,750 ▲300K 12,050 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,750 ▲300K 12,050 ▲250K
Miếng SJC Thái Bình 12,200 ▲600K 12,400 ▲600K
Miếng SJC Nghệ An 12,200 ▲600K 12,400 ▲600K
Miếng SJC Hà Nội 12,200 ▲600K 12,400 ▲600K
Cập nhật: 22/04/2025 17:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16099 16366 16947
CAD 18238 18514 19137
CHF 31368 31747 32401
CNY 0 3358 3600
EUR 29217 29487 30523
GBP 33910 34300 35247
HKD 0 3218 3421
JPY 178 182 188
KRW 0 0 18
NZD 0 15287 15875
SGD 19325 19605 20136
THB 697 760 814
USD (1,2) 25714 0 0
USD (5,10,20) 25753 0 0
USD (50,100) 25781 25815 26120
Cập nhật: 22/04/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 34,252 34,345 35,253
HKD 3,285 3,295 3,395
CHF 31,529 31,627 32,513
JPY 181.03 181.35 189.44
THB 745.19 754.4 807.64
AUD 16,415 16,474 16,915
CAD 18,517 18,576 19,078
SGD 19,518 19,579 20,198
SEK - 2,662 2,758
LAK - 0.91 1.28
DKK - 3,928 4,064
NOK - 2,451 2,539
CNY - 3,509 3,604
RUB - - -
NZD 15,245 15,386 15,834
KRW 16.9 - 18.94
EUR 29,370 29,393 30,645
TWD 721.13 - 873.02
MYR 5,533.92 - 6,241.2
SAR - 6,798.78 7,156.33
KWD - 82,613 87,857
XAU - - -
Cập nhật: 22/04/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,760 26,100
EUR 29,263 29,381 30,473
GBP 34,115 34,252 35,226
HKD 3,277 3,290 3,397
CHF 31,400 31,526 32,443
JPY 180.36 181.08 188.70
AUD 16,321 16,387 16,917
SGD 19,511 19,589 20,123
THB 761 764 797
CAD 18,446 18,520 19,038
NZD 15,328 15,839
KRW 17.43 19.22
Cập nhật: 22/04/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25790 25790 26120
AUD 16279 16379 16944
CAD 18424 18524 19078
CHF 31638 31668 32546
CNY 0 3517.5 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29405 29505 30378
GBP 34222 34272 35374
HKD 0 3330 0
JPY 181.92 182.42 188.97
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15395 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19490 19620 20341
THB 0 726.8 0
TWD 0 790 0
XAU 12200000 12200000 12400000
XBJ 11700000 11700000 12400000
Cập nhật: 22/04/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,120
USD20 25,780 25,830 26,120
USD1 25,780 25,830 26,120
AUD 16,347 16,497 17,568
EUR 29,545 29,695 30,871
CAD 18,377 18,477 19,796
SGD 19,562 19,712 20,185
JPY 181.83 183.33 188.02
GBP 34,311 34,461 35,248
XAU 12,198,000 0 12,402,000
CNY 0 3,398 0
THB 0 762 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 22/04/2025 17:45