Tung tiền ra nền kinh tế, tư lệnh ngành nói gì vễ nỗi lo lạm phát?

14:03 | 08/01/2022

14,106 lượt xem
|
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định Chính phủ đã nhận diện và chuẩn bị các giải pháp để kiểm soát rủi ro có thể xảy ra, nhất là về áp lực lạm phát gia tăng trong 2 năm 2022 và 2023.

Lạm phát tăng cao thì các doanh nghiệp sẽ phải chạy theo vòng xoáy vay - nợ - lạm phát

Thảo luận tại tổ cũng như phát biểu trước hội trường Quốc hội trong mấy ngày qua tại kỳ họp bất thường, các đại biểu Quốc hội nhấn mạnh tính cần thiết của gói hỗ trợ của chương trình phục hồi kinh tế.

Theo tính toán của Chính phủ, ước tính giá trị thực tế của gói chính sách tài khóa, tiền tệ để phục hồi, phát triển kinh tế xã hội này là gần 347.000 tỷ đồng, khoảng 4,28% GDP.

Đồng tình gói này phải có quy mô đủ lớn, tuy nhiên, một số đại biểu cũng tỏ ra lo ngại lạm phát tăng cao khi tung thêm tiền vào nền kinh tế.

Tung tiền ra nền kinh tế, tư lệnh ngành nói gì vễ nỗi lo lạm phát? - 1
Kỳ họp bất thường của Quốc hội thảo luận nhiều nội dung quan trọng, trong đó có gói hỗ trợ nền kinh tế gần 350.000 tỷ đồng (Ảnh: Quốc Chính).

Thảo luận về gói hỗ trợ, đại biểu Quốc hội Vũ Tiến Lộc (đoàn Hà Nội) nói, trong bối cảnh hiện nay, dù chúng ta hướng tới mục tiêu phục hồi hay phát triển thì ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an toàn hệ thống vẫn là yếu tố nền tảng.

"Mất ổn định là mất tất cả. Chúng ta không thể bỏ qua một thực tế trong bối cảnh hiện nay ở nước ta là áp lực lạm phát đang lớn và áp lực nợ xấu cũng gia tăng", theo ông Lộc.

Theo ông, suốt 2 năm vừa qua, ngân sách Nhà nước cũng như chính sách tiền tệ đã có nhiều nỗ lực để có thể hỗ trợ cho nền kinh tế. Bây giờ, dư địa chính sách của chúng ta không còn nhiều, đặc biệt dư địa trong chính sách ngân hàng. Còn hiện nay, ngân hàng đang cho vay dưới chuẩn. Khi dưới chuẩn có nghĩa là rủi ro về tín dụng, rủi ro về nợ xấu đang tăng lên.

Trong khi đó, trên thế giới, các ngân hàng trung ương của các quốc gia cũng đang siết chặt lại chính sách tiền tệ và tăng lãi suất. Đây là xu hướng chung của cả thế giới, theo quan sát từ đại biểu Lộc. Chưa kể, các bài học nhãn tiền của khủng hoảng kinh tế vào giai đoạn 2008-2013 vẫn còn "nóng hổi" đối với chúng ta. Do vậy, đại biểu Lộc nhất trí việc đưa ra những chính sách linh hoạt nhưng thận trọng.

Đại biểu Nguyễn Văn Huy (đoàn Thái Bình) cũng nói cần đặc biệt chú ý đến vấn đề lạm phát, vay nợ công, thâm hụt ngân sách Nhà nước và duy trì trong giới hạn chấp nhận được trong một giai đoạn nhất định.

Đại biểu thống nhất trước mắt cân nhắc điều chỉnh một số chỉ tiêu tài chính quốc gia 5 năm nhưng cần có giải pháp trong các năm 2024-2025 để phấn đấu đạt các chỉ tiêu tài chính quốc gia 5 năm mà nghị quyết Quốc hội đã ban hành.

Hơn nữa, đại biểu Chính phủ cần rà soát kỹ lưỡng các đối tượng được hỗ trợ để bảo đảm khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế và khả năng trả nợ trong tương lai. "Nếu lạm phát tăng cao thì các doanh nghiệp sẽ phải chạy theo vòng xoáy vay - nợ - lạm phát, lợi ích của chương trình phục hồi sẽ bị suy giảm", đại biểu Huy nói.

Đã nhận diện và có giải pháp

Tại phiên thảo luận tổ hôm 4/1, ông Nguyễn Mạnh Hùng, ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế, cũng lo ngại lạm phát tăng mạnh khi đưa tiền vào lưu thông và kích ở cả phía cung và cầu.

Dẫn chứng nhiều quốc gia đều tăng lạm phát khi cung thêm tiền để phục hồi kinh tế như Mỹ, châu Âu, ông Hùng đề nghị Chính phủ cần có đánh giá kỹ hơn về lạm phát bởi đây là nguy cơ hiện hữu.

Trước những lo ngại của đại biểu, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, bên cạnh đánh giá tác động của chính sách thì Chính phủ đã nhận diện và chuẩn bị các giải pháp để kiểm soát rủi ro có thể xảy ra, nhất là về áp lực lạm phát gia tăng trong năm 2022 và 2023 do cộng hưởng từ các biện pháp hỗ trợ của ta và tác động của các yếu tố bên ngoài.

"Trong quá trình thực hiện thì Chính phủ sẽ theo dõi chặt chẽ, thường xuyên diễn biến tình hình giá cả trong nước và thế giới để kịp thời có phản ứng, chính sách phù hợp để kiểm soát lạm phát, để nâng cao tính công khai, minh bạch", ông Dũng nhấn mạnh.

Trong phần báo cáo giải trình được gửi tới các đại biểu Quốc hội, ông Nguyễn Chí Dũng cũng thừa nhận từ năm 2022, rủi ro lạm phát tăng cao, các tổ chức quốc tế cảnh báo Việt Nam tránh nới lỏng hơn nữa chính sách tiền tệ.

Theo ông, lạm phát chịu nhiều sức ép tăng do cộng hưởng của cả cầu kéo và chi phí đẩy. Kinh tế phục hồi, tổng cầu tăng mạnh; giá hàng hóa thế giới neo cao, chuỗi cung ứng gián đoạn, địa chính trị phức tạp; chi phí sản xuất tăng mạnh trong năm 2021 có thể truyền dẫn sang lạm phát của năm 2022; kỳ vọng lạm phát tăng...

Trong bối cảnh trên, ông Dũng cho biết Chương trình đưa ra giải pháp điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, sẵn sàng điều chỉnh, thích ứng với diễn biến thị trường là phù hợp để vừa hỗ trợ triển khai Chương trình nhưng vẫn phải bảo đảm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.

Trước đó, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cũng trấn an, hỗ trợ cho nền kinh tế để phục hồi tăng trưởng, phải chấp nhận nợ công tăng, thâm hụt ngân sách tăng và tín dụng tăng, nhưng trong tầm kiểm soát vì không còn cách nào khác.

"Mục tiêu cao nhất là phải giữ được kinh tế vĩ mô và kiểm soát được lạm phát. Anh tung tiền ra nhiều nhưng phải tránh tình trạng không cầm cân được khiến lạm phát tăng", Chủ tịch nước nhấn mạnh.

Trong khi đó một số đại biểu lại nhấn mạnh không nên coi đây là "bơm tiền vào nền kinh tế". Bởi nếu quan niệm như vậy, nhiều người sẽ nghĩ rằng lượng tiền được bơm vào lưu thông rất nhiều, đẩy tình trạng lạm phát lên, mất giá hoặc có thể chuyển sang đầu tư vào chứng khoán, bất động sản để đầu cơ, sẽ rất nguy hiểm…

Thực tế, đại biểu chỉ ra lượng vốn đưa vào rất nhỏ, chỉ khoảng 176.000 tỷ đồng giải ngân trong 2 năm và nhiều khoản có thể giải ngân kéo dài vài năm sau. Chính vì nhỏ nên gói này cần tập trung vào các lĩnh vực đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đại dịch hoặc các vấn đề cấp bách cho việc phòng chống dịch để phục hồi kinh tế.

Theo Dân trí

"Không chấp nhận bội chi, đi vay đầu tư cho mục tiêu chưa cấp bách"
Tung gói kích thích, đại biểu lo tiền Tung gói kích thích, đại biểu lo tiền "chảy" không đúng chỗ
Quy mô gói hỗ trợ gần 350.000 tỷ đồng, Ủy ban Kinh tế đề nghị tính toán lạiQuy mô gói hỗ trợ gần 350.000 tỷ đồng, Ủy ban Kinh tế đề nghị tính toán lại
Loạt cơ chế đặc thù cho Cần Thơ có gì đặc biệt?Loạt cơ chế đặc thù cho Cần Thơ có gì đặc biệt?
Quốc hội năng động, đổi mới, hành động quyết liệt vì dânQuốc hội năng động, đổi mới, hành động quyết liệt vì dân

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 122,200 123,800
AVPL/SJC HCM 122,200 123,800
AVPL/SJC ĐN 122,200 123,800
Nguyên liệu 9999 - HN 11,000 11,100
Nguyên liệu 999 - HN 10,990 11,090
Cập nhật: 06/08/2025 11:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117,500 120,000
Hà Nội - PNJ 117,500 120,000
Đà Nẵng - PNJ 117,500 120,000
Miền Tây - PNJ 117,500 120,000
Tây Nguyên - PNJ 117,500 120,000
Đông Nam Bộ - PNJ 117,500 120,000
Cập nhật: 06/08/2025 11:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,470 ▲30K 11,920 ▲30K
Trang sức 99.9 11,460 ▲30K 11,910 ▲30K
NL 99.99 10,820 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,680 ▲30K 11,980 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,680 ▲30K 11,980 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,680 ▲30K 11,980 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 12,220 12,380
Miếng SJC Nghệ An 12,220 12,380
Miếng SJC Hà Nội 12,220 12,380
Cập nhật: 06/08/2025 11:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 ▲2K 1,238
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,224 ▲2K 12,382
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,224 ▲2K 12,383
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,168 1,193
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,168 1,194
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,167 ▼1K 1,187
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 113,025 117,525
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 81,984 ▼300K 89,184
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 73,674 ▼300K 80,874
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 65,364 ▼300K 72,564
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 62,159 ▼300K 69,359
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 42,453 ▼300K 49,653
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 ▲2K 1,238
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 ▲2K 1,238
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 ▲2K 1,238
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 ▲2K 1,238
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 ▲2K 1,238
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 ▲2K 1,238
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 ▲2K 1,238
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 ▲2K 1,238
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 ▲2K 1,238
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 ▲2K 1,238
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,224 ▲2K 1,238
Cập nhật: 06/08/2025 11:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16502 16770 17348
CAD 18525 18802 19419
CHF 31875 32256 32902
CNY 0 3570 3690
EUR 29753 30025 31052
GBP 34119 34509 35446
HKD 0 3212 3414
JPY 171 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 15230 15812
SGD 19843 20125 20651
THB 726 789 842
USD (1,2) 25979 0 0
USD (5,10,20) 26019 0 0
USD (50,100) 26048 26082 26422
Cập nhật: 06/08/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,083 26,083 26,443
USD(1-2-5) 25,040 - -
USD(10-20) 25,040 - -
GBP 34,493 34,586 35,465
HKD 3,286 3,296 3,396
CHF 32,137 32,237 33,042
JPY 174.77 175.08 182.44
THB 772.92 782.47 837.59
AUD 16,746 16,806 17,279
CAD 18,752 18,812 19,350
SGD 20,004 20,066 20,740
SEK - 2,668 2,761
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,003 4,141
NOK - 2,518 2,605
CNY - 3,605 3,702
RUB - - -
NZD 15,205 15,346 15,789
KRW 17.45 18.2 19.65
EUR 29,950 29,974 31,182
TWD 792.26 - 958.41
MYR 5,807.3 - 6,548.63
SAR - 6,882.2 7,243.08
KWD - 83,630 88,909
XAU - - -
Cập nhật: 06/08/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,060 26,070 26,410
EUR 29,692 29,811 30,934
GBP 34,209 34,346 35,330
HKD 3,277 3,290 3,396
CHF 31,817 31,945 32,844
JPY 173.99 174.69 182.09
AUD 16,602 16,669 17,209
SGD 20,008 20,088 20,633
THB 789 792 827
CAD 18,689 18,764 19,287
NZD 15,203 15,707
KRW 18.08 19.83
Cập nhật: 06/08/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26075 26075 26435
AUD 16653 16753 17318
CAD 18706 18806 19361
CHF 32090 32120 33010
CNY 0 3616.7 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4100 0
EUR 30011 30111 30889
GBP 34403 34453 35567
HKD 0 3330 0
JPY 174.22 175.22 181.78
KHR 0 6.347 0
KRW 0 18.6 0
LAK 0 1.155 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2575 0
NZD 0 15314 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2735 0
SGD 19995 20125 20856
THB 0 755.3 0
TWD 0 885 0
XAU 11900000 11900000 12380000
XBJ 10600000 10600000 12380000
Cập nhật: 06/08/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,070 26,120 26,380
USD20 26,070 26,120 26,380
USD1 26,070 26,120 26,380
AUD 16,719 16,819 17,940
EUR 30,075 30,075 31,404
CAD 18,655 18,755 20,075
SGD 20,079 20,229 20,707
JPY 175 176.5 181.16
GBP 34,512 34,662 35,455
XAU 12,218,000 0 12,382,000
CNY 0 3,500 0
THB 0 791 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/08/2025 11:45