Doanh nghiệp dịch vụ ăn uống TP.HCM "đau đầu" khi được mở cửa trở lại

20:54 | 13/09/2021

362 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Trong đơn tập thể gửi đến lãnh đạo TP.HCM, các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ ăn uống, mô hình chuỗi cửa hàng và nhà hàng, cho biết dù TP đã cho mở cửa trở lại nhưng họ không thể thực hiện được.

Theo thư kiến nghị, các doanh nghiệp đều biểu lộ sự vui mừng khi thành phố cho phép hoạt động kinh doanh ăn uống được mở cửa trở lại từ ngày 7/9, song cho rằng việc triển khai chính sách đang gặp nhiều thách thức.

Cụ thể, môi trường nhà hàng, quán ăn không có chỗ nghỉ ngơi, sinh hoạt cho nhân viên. Việc xin giấy đi đường tại TP.HCM đang gặp nhiều khó khăn, tốn nhiều thời gian.

TP.HCM cũng cho phép loại hình kinh doanh dịch vụ ăn uống, cơ sở cung ứng dịch vụ bưu chính, viễn thông, thiết bị tin học văn phòng, thiết bị dụng cụ học tập (có giấy phép đăng ký hộ kinh doanh) được hoạt động từ 6h đến 18h hàng ngày theo hình thức bán hàng mang đi.
TP.HCM cũng cho phép loại hình kinh doanh dịch vụ ăn uống, cơ sở cung ứng dịch vụ bưu chính, viễn thông, thiết bị tin học văn phòng, thiết bị dụng cụ học tập (có giấy phép đăng ký hộ kinh doanh) được hoạt động từ 6h đến 18h hàng ngày theo hình thức bán hàng mang đi.

Ngoài ra, việc di chuyển khó khăn cũng khiến doanh nghiệp F&B bị thiếu nguyên vật liệu để sản xuất, kinh doanh, nhà cung cấp không thể giao hàng liên quận, liên tỉnh. "Thời gian cho phép bán hàng quá ngắn (đến 18h) trong khi phần lớn nhu cầu ăn uống đa số là vào buổi tối," thư kiến nghị nêu rõ. Dù không có doanh thu nhưng các doanh nghiệp kinh doanh nhà hàng, khách sạn, bán lẻ vẫn phải chi trả chi phí mặt bằng, kho bãi, nhân sự, bảo hiểm xã hội…Theo đó, quy định thực hiện mô hình “3 tại chỗ” (sản xuất tại chỗ, ăn tại chỗ, ngủ/nghỉ tại chỗ) đã khiến các doanh nghiệp, người kinh doanh "bó tay". Bởi hiện nay nhà hàng không có khu vực tắm rửa và nghỉ ngơi cho nhân viên, rất nóng và ngột ngạt khi đóng cửa vào cuối ngày, do đó không đảm bảo sức khỏe và không phù hợp để làm nơi ở cho nhân viên.

Thời gian bán hàng là từ 6 giờ sáng đến 18 giờ là quá ngắn, không kịp thực hiện các đơn hàng phục vụ giờ ăn tối của người dân. Quy định nhân viên phải được xét nghiệm nhanh âm tính với Covid-19 hai ngày/lần, với mức phí doanh nghiệp tự chi trả cho xét nghiệm nhanh sẽ khiến tăng chi phí hoạt động. Trong khi đó, đa số nhân viên nhà hàng đã trở về tỉnh và chưa được tiêm vắc xin nên khó trở lại TP.HCM để làm việc.

Một nguyên nhân nữa khiến việc mở cửa khó thành hiện thực là thiếu nguyên vật liệu do một số hạn chế trong việc giao hàng liên tỉnh, liên quận của các nhà cung cấp.

Từ những khó khăn nêu trên, các doanh nghiệp kiến nghị lên lãnh đạo UBND TP.HCM và các cơ quan ban ngành có những chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người lao động và các doanh nghiệp bán lẻ, dịch vụ ăn uống, mô hình chuỗi cửa hàng, nhà hàng bằng các giải pháp như: ưu tiên tiêm vắc xin cho người lao động đang hoạt động trong lĩnh vực này.

khó đáp ứng được quy định
Nhiều doanh nghiệp cho biết khó đáp ứng được quy định "3 tại chỗ" vì không gian nhỏ, không có chỗ nấu ăn, không bố trí được chỗ ở lại cho nhân viên.

Những người được tiêm ít nhất 1 mũi có thể trở lại làm việc tại văn phòng và tại cơ sở kinh doanh ăn uống, bán lẻ, dịch vụ. Doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm kiểm tra sức khỏe cho nhân viên, đảm bảo tuân thủ 5K nghiêm ngặt. Cho phép nhân sự giao hàng riêng của doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ được đi giao hàng chứ không giới hạn chỉ có tài xế công nghệ được di chuyển. Đồng thời tạo điều kiện để doanh nghiệp sản xuất có đủ nguồn cung nguyên vật liệu (kể cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phụ trợ như bao bì, tem nhãn...).

Các doanh nghiệp cũng kiến nghị cho tạm ngừng đóng bảo hiểm xã hội ít nhất đến 6 tháng sau khi công bố hết dịch. Miễn giảm 100% nghĩa vụ phải nộp bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp và người lao động trong thời gian đại dịch phải ngừng hoạt động và giãn cách xã hội. Được miễn thuế VAT trong năm 2021, giảm 50% thuế VAT trong hai năm kế tiếp 2022 - 2023, giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2021 và giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp 3 năm kế tiếp. Được chấp nhận tất cả các chi phí phát sinh trong đại dịch mà doanh nghiệp phải chịu: xét nghiệm, chi phí chống dịch và 3 tại chỗ.

Các doanh nghiệp cũng kiến nghị được cấp nguồn cho vay và hỗ trợ các doanh nghiệp trong vòng 24 tháng trong và sau dịch, hoặc hỗ trợ gói ưu đãi lãi suất cho doanh nghiệp tối thiểu 4% tương đương gói hỗ trợ năm 2008 - 2009 trong vòng hai năm kể từ ngày 1.10.2021. Cho phép thực hiện chính sách khoanh nợ, giãn nợ (cả gốc và lãi) đối với các doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động và gặp khó khăn không có khả năng thanh toán do đại dịch kéo dài. Đồng thời khoanh nợ gốc và giảm lãi suất từ 2 - 3% kể từ ngày 1.10.2021 đến 6 tháng sau khi Chính phủ công bố hết dịch đối với các doanh nghiệp còn lại.

Trả lời báo chí, ông Lê Xuân Trường, CEO hệ thống F&B chuyên bán hàng mang đi Tasty Kitchen cho biết dù bán món mang đi là lợi thế của hệ thống nhưng chưa kịp triển khai, có thể mất một thời gian nữa. Hơn nữa, doanh nghiệp phải làm thủ tục thông báo với cơ quan quản lý địa phương nếu muốn hoạt động trở lại, rồi sắp xếp lại nhân sự, nguyên liệu, nhân viên giao hàng... "Phần lớn nhân viên của chúng tôi đều đã về quê, một số ở trong khu vực phong tỏa, mất nhiều thời gian mới có thể quay trở lại. Chưa kể các điều kiện xét nghiệm, test Covid-19 và giá nguyên liệu tăng rất cao..." ông Trường nói.

Theo ông Mai Trường Giang, CEO Otoke Chicken và Chewy Chewy, doanh nghiệp F&B hiện nay đang phải chi trả rất nhiều chi phí và chấp nhận lỗ để duy trì mô hình kinh doanh mang đi. Việc giao hàng hiện nay của các cửa hàng cũng gặp nhiều khó khăn do giá giao hàng tăng vọt, lực lượng shipper không đủ, phí hoa hồng cho các ứng dụng giao hàng công nghệ là 20 - 30%. Chưa kể đến việc thành phố vẫn còn nhiều điểm phong tỏa, chưa thể giao hàng nội quận dễ dàng. "Vì vậy, chúng tôi sẽ theo dõi thêm và đưa ra kế hoạch mở lại khi tình hình ổn định hơn," ông Giang chia sẻ.

Trả lời về thông tin quán ăn chưa mở cửa do thiếu nguyên liệu, chiều 10/9, ông Nguyễn Nguyên Phương, phó giám đốc Sở Công thương TP.HCM, cho biết TP.HCM có khoảng 7.500 doanh nghiệp, hàng chục ngàn hộ kinh doanh cá thể kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ ăn uống. Ông Phương khẳng định các loại thực phẩm chính hiện nay không thiếu. Việc nhiều quán ăn chưa mở lại có nhiều nguyên nhân.

Thứ nhất, về cách thức vận hành, các quán ăn phải mở lại hoạt động trong an toàn, an toàn tới đâu mở tới đó. Các loại hình này trước mắt hoạt động "3 tại chỗ", chỉ bán mang về thông qua shipper. Hiện nay người giao hàng chỉ hoạt động trong phạm vi 1 quận, huyện. Người kinh doanh phải tính toán vì "3 tại chỗ" cũng gặp một số khó khăn.

Thứ hai, là việc cách thức tiếp cận với nguồn nguyên liệu. Trước đây, người kinh doanh có các nhà cung cấp thường xuyên, chỉ cần gọi điện thoại là giao hàng hóa tới. Hiện nay, người kinh doanh phải đặt hàng qua một người khác, vì các nhà cung cấp hiện nay chưa có giấy đi đường để có thể cung cấp được.

Thứ ba, hiện nay khách hàng, người dân không được trực tiếp đi ra đường, chỉ mua thông qua shipper, mà shipper chỉ hoạt động trong quận, huyện. Có nghĩa là quán ăn này chỉ phục vụ trong phạm vi 1 quận, huyện. Các quán ăn sẽ có khả năng không có lượng khách hàng lớn như trước đây, dẫn đến việc họ sẽ cân nhắc có mở ngay lúc này hay không…

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Bài 2: Nghị quyết 105 - Bước ngoặt trong cuộc chiến chống dịch Covid-19Bài 2: Nghị quyết 105 - Bước ngoặt trong cuộc chiến chống dịch Covid-19
"Quản trị khủng hoảng" cho doanh nghiệp
Bài 1: Vì sao các hiệp hội ngành nghề phải kêu cứu?Bài 1: Vì sao các hiệp hội ngành nghề phải kêu cứu?

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,000 ▲300K 118,000 ▲300K
AVPL/SJC HCM 116,000 ▲300K 118,000 ▲300K
AVPL/SJC ĐN 116,000 ▲300K 118,000 ▲300K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,730 ▼120K 11,250 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,720 ▼120K 11,240 ▲50K
Cập nhật: 10/06/2025 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.000 ▲500K 114.800 ▲800K
TPHCM - SJC 116.500 ▲800K 118.500 ▲800K
Hà Nội - PNJ 112.000 ▲500K 114.800 ▲800K
Hà Nội - SJC 116.500 ▲800K 118.500 ▲800K
Đà Nẵng - PNJ 112.000 ▲500K 114.800 ▲800K
Đà Nẵng - SJC 116.500 ▲800K 118.500 ▲800K
Miền Tây - PNJ 112.000 ▲500K 114.800 ▲800K
Miền Tây - SJC 116.500 ▲800K 118.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.000 ▲500K 114.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.500 ▲800K 118.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.500 ▲800K 118.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.000 ▲500K 114.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.000 ▲500K 114.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.500 ▲500K 114.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.390 ▲500K 113.890 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.690 ▲500K 113.190 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.460 ▲490K 112.960 ▲490K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.150 ▲370K 85.650 ▲370K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.340 ▲290K 66.840 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.070 ▲200K 47.570 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.020 ▲450K 104.520 ▲450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.190 ▲300K 69.690 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.750 ▲320K 74.250 ▲320K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.170 ▲340K 77.670 ▲340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.400 ▲190K 42.900 ▲190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.270 ▲160K 37.770 ▲160K
Cập nhật: 10/06/2025 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,060 ▲120K 11,460 ▲100K
Trang sức 99.9 11,050 ▲120K 11,450 ▲100K
NL 99.99 10,710 ▲20K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,710 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,270 ▲120K 11,520 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,270 ▲120K 11,520 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,270 ▲120K 11,520 ▲100K
Miếng SJC Thái Bình 11,650 ▲80K 11,850 ▲80K
Miếng SJC Nghệ An 11,650 ▲80K 11,850 ▲80K
Miếng SJC Hà Nội 11,650 ▲80K 11,850 ▲80K
Cập nhật: 10/06/2025 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16422 16690 17269
CAD 18451 18728 19349
CHF 31026 31404 32043
CNY 0 3530 3670
EUR 29059 29329 30362
GBP 34289 34680 35621
HKD 0 3183 3386
JPY 172 177 183
KRW 0 18 19
NZD 0 15416 16009
SGD 19677 19959 20488
THB 712 775 829
USD (1,2) 25746 0 0
USD (5,10,20) 25785 0 0
USD (50,100) 25813 25847 26192
Cập nhật: 10/06/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,857 25,857 26,217
USD(1-2-5) 24,823 - -
USD(10-20) 24,823 - -
GBP 34,750 34,844 35,714
HKD 3,259 3,268 3,367
CHF 31,316 31,414 32,201
JPY 176.96 177.27 184.79
THB 759.9 769.28 823.31
AUD 16,690 16,750 17,216
CAD 18,687 18,747 19,298
SGD 19,858 19,920 20,587
SEK - 2,664 2,758
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,915 4,050
NOK - 2,540 2,628
CNY - 3,575 3,672
RUB - - -
NZD 15,396 15,539 15,993
KRW 17.62 18.38 19.84
EUR 29,283 29,307 30,518
TWD 785.87 - 950.79
MYR 5,747.47 - 6,481.93
SAR - 6,825.84 7,184.43
KWD - 82,708 87,939
XAU - - -
Cập nhật: 10/06/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,860 25,870 26,210
EUR 29,167 29,284 30,397
GBP 34,682 34,821 35,816
HKD 3,253 3,266 3,371
CHF 31,134 31,259 32,167
JPY 175.93 176.64 183.96
AUD 16,657 16,724 17,258
SGD 19,908 19,988 20,534
THB 777 780 815
CAD 18,677 18,752 19,278
NZD 15,521 16,029
KRW 18.38 20.26
Cập nhật: 10/06/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25830 25830 26190
AUD 16593 16693 17258
CAD 18628 18728 19284
CHF 31258 31288 32173
CNY 0 3584.3 0
CZK 0 1150 0
DKK 0 3978 0
EUR 29340 29440 30216
GBP 34580 34630 35743
HKD 0 3320 0
JPY 176.3 177.3 183.81
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6350 0
NOK 0 2580 0
NZD 0 15520 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2706 0
SGD 19833 19963 20692
THB 0 741.1 0
TWD 0 867 0
XAU 11350000 11350000 11850000
XBJ 10000000 10000000 11850000
Cập nhật: 10/06/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,860 25,910 26,180
USD20 25,860 25,910 26,180
USD1 25,860 25,910 26,180
AUD 16,617 16,767 17,832
EUR 29,356 29,506 30,806
CAD 18,571 18,671 19,987
SGD 19,910 20,060 20,532
JPY 176.87 178.37 182.99
GBP 34,657 34,807 35,588
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,471 0
THB 0 777 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 10/06/2025 23:00