Giá dầu thô ghi nhận tuần mất giá mạnh

08:14 | 05/02/2023

11,766 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Đồng USD phục hồi mạnh cộng với những hoài nghi về triển vọng tiêu thụ dầu toàn cầu cũng như khả năng tác động đến nguồn cung của các lệnh cấm vận của EU, G7 đối với dầu thô Nga khiến giá dầu thô có tuần giao dịch giảm mạnh.
giá dầu giảm
Ảnh minh họa
Giá vàng hôm nay (5/2): Đồng USD “thổi bay” nỗ lực phục hồi của kim loại quýGiá vàng hôm nay (5/2): Đồng USD “thổi bay” nỗ lực phục hồi của kim loại quý

Sau tuần giảm giá mạnh và cũng đang trên đà lao dốc, giá dầu thô bất ngờ bước vào tuần giao dịch từ ngày 30/1 với xu hướng tăng nhẹ trong bối cảnh đồng USD yếu hơn và thị trường dự báo về việc OPEC+ sẽ giữ nguyên chính sách cắt giảm sản lượng.

Nguồn cung dầu thô cũng được dự báo sẽ giảm khi Nga có kế hoạch cắt giảm sản lượng từ 5-7% vào đầu tháng 2/2023, trong khi OPEC+ nhiều khả năng sẽ tiếp tục duy trì chính sách cắt giảm sản lượng.

Nhu cầu tiêu thụ dầu cũng được nhận định sẽ phục hồi mạnh khi các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc vẫn đang giữ được đà phục hồi tốt, đặc biệt là Trung Quốc khi nhu cầu đi lại được ghi nhận tăng mạnh sau quyết định mở cửa trở lại nền kinh tế.

Ghi nhận vào đầu giờ sáng ngày 30/1/2023, theo giờ Việt Nam, trên sàn New York Mercantile Exchanghe, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 3/2023 đứng ở mức 80,32 USD/thùng. Trong khi giá dầu Brent giao tháng 3/2023 đứng ở mức 86,90 USD/thùng.

Đà tăng của giá dầu đã không thể duy trì trong phiên giao dịch sau đó khi giới đầu tư lo ngại các quyết định tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương sẽ gia tăng đáng kể áp lực đối với triển vọng phục hồi kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, ở chiều hướng khác, lãi suất duy trì ở mức cao cũng được kỳ vọng sẽ tiếp tục hạ nhiệt lạm phát thời gian tới.

Những thông tin về nguồn cung dầu thô từ Nga vẫn khá dồi dào, bất chấp các lệnh cấm vận của EU, G7… cũng là yếu tố khiến giá dầu ngày 31/1 đi xuống.

Tuy nhiên, trong phiên giao dịch giữa tuần, trong bối cảnh đồng USD yếu hơn và lo ngại nguồn cung dầu thô từ Nga sụt giảm mạnh sau khi Nga công bố các biện pháp giám sát hoạt động xuất khẩu dầu, giá dầu đã quay đầu tăng mạnh.

Cụ thể, chính phủ Nga đã thông qua nghị định yêu cầu các công ty xuất khẩu dầu mỏ và các sản phẩm dầu mỏ của Nga giám sát những gì không thuộc phạm vi áp dụng trần giá đối với tất cả các giai đoạn của chuỗi cung ứng cho đến người tiêu dùng cuối cùng.

Quyết định kể trên tuân theo sắc lệnh của Tổng thống Nga, cấm cung cấp dầu cho các quốc gia áp dụng trần giá.

Theo Giám đốc Trung tâm Phân tích Chiến lược và Công nghệ Phát triển Tổ hợp Nhiên liệu và Năng lượng, Đại học Dầu khí Quốc gia Nga Gubkin, Vyacheslav Mishchenko, các biện pháp được thực hiện sẽ cho phép Nga khắc phục thành công các hạn chế và chuyển hướng dòng dịch vụ hậu cần sang các thị trường khác.

"Nga phải tích cực tham gia vào việc định dạng lại các dòng tài nguyên năng lượng, hậu cần và chuỗi tài chính. Sau đó, nước này sẽ có thể kiểm soát độc lập việc cung cấp dầu thông qua tất cả các chuỗi, bao gồm cả giao hàng trực tiếp", ông Mishchenko nói.

Ngoài ra, tâm lý hưng phấn của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán trước kỳ vọng các ngân hàng trung ương sẽ sớm thực hiện hạ lãi suất khi các nền kinh tế có dầu hiệu tăng trưởng chậm lại cũng là nhân tố hỗ trợ giá dầu đi lên.

Ghi nhận vào đầu giờ sáng ngày 1/2/2023, theo giờ Việt Nam, trên sàn New York Mercantile Exchanghe, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 3/2023 đứng ở mức 79,12 USD/thùng; trong khi giá dầu Brent giao tháng 4/2023 đứng ở mức 85,66 USD/thùng.

Tuy nhiên, vào cuối phiên giao dịch, giá dầu lại có xu hướng giảm mạnh khi thị trường ghi nhận thông tin dự trữ dầu thô và nhiên liệu của Mỹ tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 6/2021 vào tuần trước do nhu cầu yếu. Cụ thể, trong tuần kết thúc ngày 27/1, dự trữ dầu thô Mỹ đã lên mức 452,7 triệu thùng, cao hơn 400.000 thùng so với dự báo được các nhà phân tích đưa ra trong một cuộc thăm dò của Reuters.

Áp lực giảm giá đầu với dầu thô tiếp tục gia tăng trong phiên giao dịch sau đó khi đồng USD phục hồi trong bối cảnh Fed phát đi thông điệp về khả năng đưa lãi suất lên mức 5 – 5,25% trước khi dừng lại.

Giới chuyên gia lo ngại, lãi suất tăng sẽ làm tăng chi phí sản xuất hàng hóa và các hoạt động kinh tế khác, qua đó có thể đẩy lạm phát tăng trở lại. Điều này được dự báo sẽ tạo các tác động tiêu cực đến nhu cầu tiêu thụ dầu toàn cầu.

Giá dầu giảm mạnh còn do thị trường ghi nhận dấu hiệu chậm lại của nền kinh tế Mỹ, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp, khi các đơn đợt hàng thiết bị công nghiệp máy móc, thiết bị được Bộ Thương mại Mỹ ghi nhận giảm.

Ở diễn biến khác, triển vọng tiêu thụ dầu tại Mỹ, nước tiêu thụ dầu mỏ lớn nhất thế giới, cũng đang bị hạn chế bởi đồng USD mạnh hơn và mặt bằng lãi suất cao hơn, trong khi các nền kinh tế lớn như EU, Anh, Nhật, Canada… vẫn đang được cảnh báo nguy cơ suy thoái.

Quyết định mở cửa trở lại nền kinh tế của Trung Quốc được kỳ vọng sẽ thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ dầu toàn cầu. Tuy nhiên, theo những dữ liệu gần đây thì triển vọng này vẫn khá mờ nhạt.

Mới nhất, ngân hàng ANZ đã chỉ ra rằng, mặc dù lượng giao thông tại 15 thành phố lớn của Trung Quốc đã tăng vọt sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán nhưng các thương nhân của Trung Quốc lại khá thưa thớt.

Sự gia tăng các ca nhiễm Covid-19 mới tại nhiều nền kinh tế lớn như Nhật Bản cũng dấy lên nhiều lo ngại về nhu cầu tiêu thụ dầu.

Khép tuần giao dịch, giá dầu hôm nay ghi nhận giá dầu dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 3/2023 trên sàn New York Mercantile Exchanghe đứng ở mức 72,23 USD/thùng; trong khi giá dầu Brent giao tháng 4/2023 đứng ở mức 79,76 USD/thùng.

Tại thị trường trong nước, ngày 30/1, Liên Bộ Công Thương – Tài chính đã công bố giá cơ sở đối với các mặt hàng xăng dầu cho kỳ điều hành từ ngày 30/1.

Theo đó, tại kỳ điều hành này, Liên Bộ Công Thương - Tài chính quyết định tăng mức chi Quỹ BOG đối với mặt hàng xăng E5 RON 92 lên mức 850 đồng/lít, xăng RON 95 lên mức 950 đồng/lít. Đồng thời, giảm mức trích lập Quỹ BOG đối với tất cả các mặt hàng dầu về mức 200 đồng/lít/kg, để giá các mặt hàng xăng dầu trong nước phù hợp với diễn biến giá xăng dầu thế giới.

Liên Bộ Công Thương - Tài chính cũng quyết định thực hiện trích lập Quỹ BOG đối với dầu diesel ở mức 200 đồng/lít (kỳ trước 605 đồng/lít), dầu hỏa ở mức 200 đồng/lít (kỳ trước 650 đồng/lít); dầu Mazut ở mức 200 đồng/kg (kỳ trước 300 đồng/lít).

Sau khi thực hiện trích lập và chi sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu, giá bán các mặt hàng xăng dầu tiêu dùng phổ biến trên thị trường như sau: Giá xăng E5 RON 92 không cao hơn 22.329 đồng/lít; giá xăng RON 95 không cao hơn 23.147 đồng/lít; giá dầu diesel 0.05S không cao hơn 22.524 đồng/lít; giá dầu hỏa không cao hơn 22.576 đồng/lít; giá dầu mazut 180CST 3.5S không cao hơn 13.934 đồng/kg.

Hà Lê

Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 4/2/2023Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 4/2/2023
Tin tức kinh tế ngày 4/2: Mục tiêu đưa tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 8 - 9%Tin tức kinh tế ngày 4/2: Mục tiêu đưa tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 8 - 9%
Hạ viện Mỹ thông qua Dự luật hạn chế rút dầu từ SPRHạ viện Mỹ thông qua Dự luật hạn chế rút dầu từ SPR
Thu ngân sách từ dầu thô của ngành Thuế tháng 1/2023 đạt 5.300 tỷ đồngThu ngân sách từ dầu thô của ngành Thuế tháng 1/2023 đạt 5.300 tỷ đồng
EIA: Sản lượng dầu thô của Mỹ 2023EIA: Sản lượng dầu thô của Mỹ 2023
Bản tin Năng lượng Quốc tế 3/2: Nhập khẩu dầu thô vào châu Á đạt kỷ lụcBản tin Năng lượng Quốc tế 3/2: Nhập khẩu dầu thô vào châu Á đạt kỷ lục

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,700 117,700
AVPL/SJC HCM 115,700 117,700
AVPL/SJC ĐN 115,700 117,700
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 10/06/2025 10:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.500 114.000
TPHCM - SJC 115.700 117.700
Hà Nội - PNJ 111.500 114.000
Hà Nội - SJC 115.700 117.700
Đà Nẵng - PNJ 111.500 114.000
Đà Nẵng - SJC 115.700 117.700
Miền Tây - PNJ 111.500 114.000
Miền Tây - SJC 115.700 117.700
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.500 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 115.700 117.700
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.500
Giá vàng nữ trang - SJC 115.700 117.700
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.500 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.500 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.000 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.890 113.390
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.190 112.690
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.970 112.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.780 85.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.050 66.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.870 47.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.570 104.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.890 69.390
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.430 73.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.830 77.330
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.210 42.710
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.110 37.610
Cập nhật: 10/06/2025 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,990 ▲50K 11,410 ▲50K
Trang sức 99.9 10,980 ▲50K 11,400 ▲50K
NL 99.99 10,740 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,740 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,200 ▲50K 11,470 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,200 ▲50K 11,470 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,200 ▲50K 11,470 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 11,570 11,770
Miếng SJC Nghệ An 11,570 11,770
Miếng SJC Hà Nội 11,570 11,770
Cập nhật: 10/06/2025 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16437 16705 17284
CAD 18462 18739 19357
CHF 30987 31365 32014
CNY 0 3530 3670
EUR 29051 29320 30348
GBP 34440 34832 35769
HKD 0 3187 3389
JPY 172 177 183
KRW 0 18 19
NZD 0 15408 15999
SGD 19692 19973 20490
THB 711 774 827
USD (1,2) 25777 0 0
USD (5,10,20) 25816 0 0
USD (50,100) 25844 25878 26219
Cập nhật: 10/06/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,860 25,860 26,220
USD(1-2-5) 24,826 - -
USD(10-20) 24,826 - -
GBP 34,862 34,956 35,840
HKD 3,259 3,269 3,368
CHF 31,320 31,417 32,208
JPY 176.89 177.21 184.68
THB 760.22 769.61 823.65
AUD 16,718 16,778 17,244
CAD 18,700 18,760 19,313
SGD 19,868 19,930 20,599
SEK - 2,669 2,763
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,920 4,055
NOK - 2,544 2,633
CNY - 3,578 3,676
RUB - - -
NZD 15,419 15,562 16,013
KRW 17.76 18.52 19.99
EUR 29,323 29,346 30,559
TWD 785.57 - 951.05
MYR 5,754.93 - 6,493.41
SAR - 6,826.63 7,185.26
KWD - 82,639 88,009
XAU - - -
Cập nhật: 10/06/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,860 25,870 26,210
EUR 29,167 29,284 30,397
GBP 34,682 34,821 35,816
HKD 3,253 3,266 3,371
CHF 31,134 31,259 32,167
JPY 175.93 176.64 183.96
AUD 16,657 16,724 17,258
SGD 19,908 19,988 20,534
THB 777 780 815
CAD 18,677 18,752 19,278
NZD 15,521 16,029
KRW 18.38 20.26
Cập nhật: 10/06/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25860 25860 26220
AUD 16579 16679 17246
CAD 18634 18734 19291
CHF 31194 31224 32113
CNY 0 3589.3 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29304 29404 30182
GBP 34703 34753 35869
HKD 0 3270 0
JPY 175.84 176.84 183.35
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15497 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19825 19955 20684
THB 0 739.6 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11800000
Cập nhật: 10/06/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,860 25,910 26,160
USD20 25,860 25,910 26,160
USD1 25,860 25,910 26,160
AUD 16,661 16,811 17,879
EUR 29,395 29,545 30,723
CAD 18,593 18,693 20,013
SGD 19,922 20,072 20,550
JPY 176.68 178.18 182.83
GBP 34,847 34,997 35,777
XAU 11,568,000 0 11,772,000
CNY 0 3,474 0
THB 0 776 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 10/06/2025 10:00