Giá xăng dầu hôm nay 16/10: Ám ảnh suy thoái khiến giá dầu giảm mạnh

06:30 | 16/10/2022

6,197 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Lo ngại suy thoái kinh tế, nhu cầu tiêu thụ dầu tại Trung Quốc giảm mạnh và đồng USD mạnh khiến giá dầu thô có tuần giao dịch đầy khó khăn, bất chấp tình hình nguồn cung thắt chặt.
Giá xăng dầu hôm nay 16/10: Ám ảnh suy thoái khiến giá dầu giảm mạnh
Ảnh minh hoạ
Giá vàng hôm nay 16/10: Ghi nhận tuần lao dốc mạnhGiá vàng hôm nay 16/10: Ghi nhận tuần lao dốc mạnh
Tin tức kinh tế ngày 15/10: Bộ trưởng Bộ Công Thương kiểm tra tổng kho xăng dầuTin tức kinh tế ngày 15/10: Bộ trưởng Bộ Công Thương kiểm tra tổng kho xăng dầu
Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 15/10/2022Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 15/10/2022

Giá dầu thế giới bước vào tuần giao dịch từ ngày 10/10 với trạng thái khá bất ổn khi thị trường liên tiếp ghi nhận cảnh báo nguy cơ suy thoái kinh tế sẽ đến sớm hơn dự báo.

Quyết định cắt giảm sản lượng khai thác của OPEC+ có thể hỗ trợ giá dầu đi lên nhưng nó cũng đồng nghĩa với áp lực lạm phát gia tăng, đặt kinh tế toàn cầu trước những rủi ro mới.

Việc các ngân hàng trung ương quyết định tăng mạnh lãi suất nhằm hạ nhiệt lạm phát đã bước đầu phát huy hiệu quả, tuy nhiên, ở chiều hướng ngược lại, nó cũng tạo thêm áp lực đối với nỗ lực hỗ trợ, phục hồi kinh tế của các nước.

Chủ tịch Fed Chicago Charles Evans trong tuần đã cho biết hiện Fed đã đạt được đồng thuận cao về việc tăng lãi suất chính sách mục tiêu lên 4,5% vào tháng 3/2023 và giữ nguyên ở đó trong khi có những đánh giá về tác động của nó tới lạm phát và chuỗi cung ứng.

Nhưng ở chiều hướng tích cực, rủi ro nguồn cung năng lượng, trong đó có dầu thô từ Nga, cũng là nhân tố hỗ trợ giá dầu đi lên.

Ghi nhận vào đầu giờ sáng ngày 10/10/2022, theo giờ Việt Nam, trên sàn New York Mercantile Exchanghe, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 12/2022 đứng ở mức 91,27 USD/thùng, giảm 0,08 USD/thùng trong phiên. Trong khi đó, giá dầu Brent giao tháng 12/2022 đứng ở mức 98,43 USD/thùng, tăng 4,01 USD/thùng trong phiên.

Và khi lo ngại suy thoái kinh tế gia tăng trước sự leo thang căng thẳng xung đột Nga – Ukraine bào mòn nhu cầu tiêu thụ, đặc biệt là tại các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc…, giá dầu đà quay đầu giảm mạnh.

Ngày 11/10, Chủ tịch Ngân hàng thế giới (WB) David Malpass và Giám đốc điều hành Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) Kristalina Georgieva hôm đã cảnh báo nguy cơ suy thoái toàn cầu ngày càng tăng và cho biết lạm phát vẫn là một vấn đề tiếp diễn.

Theo báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới mới nhất được đưa ra tại cuộc họp thường niên, IMF cho rằng, tăng trưởng trong năm 2023 sẽ giảm xuống mức 2,7% so với mức dự báo 2,9% hồi tháng 7 vừa qua. Cuộc xung đột Nga – Ukraine chưa hồi kết, giá năng lượng và lương thực cao, tình trạng lạm phát và lãi suất cao là những nguyên nhân chính được IMF chỉ ra khiến kinh tế thế giới đối mặt với nguy cơ gia tăng rơi vào suy thoái trong năm tới.

IMF dự báo tăng trưởng kinh tế Mỹ trong năm 2023 sẽ chỉ ở mức 1%; khu vực đồng tiền Euro là 0,5% và Trung Quốc là 4,4%.

Tại Mỹ, theo báo cáo của Viện Dầu mỏ Mỹ (API), tuần trước dự trữ dầu thô của Mỹ tăng 7,054 triệu thùng; dự trữ xăng tăng 2,008 triệu thùng; và dự trữ sản phẩm chưng cất giảm 4,560 triệu thùng.

Bộ Năng lượng Mỹ đã dự báo mức tiêu thụ dầu của nước này trong năm 2023 chỉ tăng 0,9%, giảm đáng kể so với dự báo 1,7% được đưa ra trước đó. Mức tăng này của toàn thế giới trong năm 2023 là 1,5%, thấp hơn mức dự báo 2% được đưa ra trước đó.

Ghi nhận vào đầu giờ sáng ngày 13/10/2022, theo giờ Việt Nam, trên sàn New York Mercantile Exchanghe, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 12/2022 đứng ở mức 85,99 USD/thùng, giảm 0,07 USD/thùng trong phiên. Trong khi đó, giá dầu Brent giao tháng 12/2022 đứng ở mức 92,45 USD/thùng, giảm 0,12 USD/thùng trong phiên.

Đà giảm của giá dầu chỉ tạm bị chặn lại vào đầu phiên 14/10 khi thị trường ghi nhận dữ liệu về tồn kho dầu diesel và dầu sưởi của Mỹ xuống mức thấp và tâm lý tích cực của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Mỹ.

Theo số liệu từ Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA), tồn kho dầu diesel và dầu sưởi của Mỹ đã giảm tới 4,9 triệu thùng trong tuần kết thúc ngày 7/10, cao hơn nhiều so với dự báo giảm 2 triệu thùng được giới phân tích đưa ra trước đó.

Tồn kho sản phẩm chưng cất của Mỹ hiện chỉ còn 106,1 triệu thùng, thấp nhất kể từ tháng 5/2022. Và tồn kho dầu của Mỹ lại tăng 9,9 triệu thùng, trong khi dự trữ xăng lại tăng 2 triệu thùng.

Thị trường cũng đặt cược vào nhu cầu tiêu thụ dầu sẽ tăng mạnh khi mùa đông đến gần tại châu Âu trong bối cảnh nguồn cung khí đốt tại khu vực thắt chặt.

Tuy nhiên, triển vọng nhu cầu yếu, đồng USD mạnh hơn, dự trữ dầu thô Mỹ tăng... vẫn tiếp tục tạo áp lực kiềm chế đà tăng của giá dầu. Và thực tế ngay phiên giao dịch sau đó, những nhân tố này đã nhanh chóng khiến giá dầu rơi vào trạng thái lao dốc mạnh.

Kinh tế toàn cầu liên tục được cảnh báo về nguy cơ sớm rơi vào trạng thái suy thoái trong bối cảnh lạm phát tăng cao, chi phí năng lượng leo thang.

Đặc biệt là tại Trung Quốc, giới đầu tư lo ngại nhu cầu tiêu thụ dầu của nền kinh tế thứ 2 thế giới sẽ giảm mạnh khi dịch Covid-19 lại đang “nóng” tại nhiều khu vực, trong khi Trung Quốc vẫn đang theo đuổi chính sách zero-Covid.

Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) mới đây đã cảnh báo quyết định cắt giảm sản lượng của OPEC+ có thể đẩy kinh tế toàn cầu sớm rơi vào suy thoái.

IEA cũng hạ dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu trong năm 2022 xuống 1,9 triệu thùng/ngày và năm 2022 xuống 1,7 triệu thùng/ngày.

Chốt tuần giao dịch, giá dầu hôm nay ghi nhận giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 12/2022 trên sàn New York Mercantile Exchanghe đứng ở mức 84,54 USD/thùng, giảm 3,41 USD/thùng trong phiên. Trong khi đó, giá dầu Brent giao tháng 12/2022 đứng ở mức 91,72 USD/thùng, giảm 2,85 USD/thùng trong phiên.

Tại thị trường trong nước, hiện giá bán các mặt hàng xăng dầu tiêu dùng phổ biến trên thị trường như sau: Giá xăng E5RON92 không cao hơn 21.292 đồng/lít; giá xăng RON95 không cao hơn 22.007 đồng/lít; giá dầu điêzen 0.05S không cao hơn 24.187 đồng/lít; giá dầu hỏa không cao hơn 22.820 đồng/lít; giá dầu mazut 180CST 3.5S: không cao hơn 14.094 đồng/kg.

Hà Lê

Tổng thống Putin lý giải chưa thể đàm phán hòa bình với UkraineTổng thống Putin lý giải chưa thể đàm phán hòa bình với Ukraine
OPEC: Nhu cầu dầu năm 2022 và 2023 ra sao?OPEC: Nhu cầu dầu năm 2022 và 2023 ra sao?
Nga nêu cách cấp thêm khí đốt cho EU giữa Nga nêu cách cấp thêm khí đốt cho EU giữa "cơn khát" năng lượng
Dầu giảm do đồng đô la mạnh lên, lo lắng về suy thoái và thái độ cứng rắn của FedDầu giảm do đồng đô la mạnh lên, lo lắng về suy thoái và thái độ cứng rắn của Fed
Ukraine đề xuất Ukraine đề xuất "công thức hòa bình"
Bị phớt lờ, Mỹ đe dọa ngừng bán vũ khí cho Ả Rập Xê-útBị phớt lờ, Mỹ đe dọa ngừng bán vũ khí cho Ả Rập Xê-út
Mỹ liệu có trừng phạt Ả Rập Xê-út sau quyết định mạnh tay của OPEC+Mỹ liệu có trừng phạt Ả Rập Xê-út sau quyết định mạnh tay của OPEC+

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,200 ▲300K 117,200
AVPL/SJC HCM 115,200 ▲300K 117,200
AVPL/SJC ĐN 115,200 ▲300K 117,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,800 ▼50K 11,150 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,790 ▼50K 11,140 ▼50K
Cập nhật: 09/06/2025 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.500 ▲500K 114.000 ▲400K
TPHCM - SJC 115.700 ▲800K 117.700 ▲500K
Hà Nội - PNJ 111.500 ▲500K 114.000 ▲400K
Hà Nội - SJC 115.700 ▲800K 117.700 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 111.500 ▲500K 114.000 ▲400K
Đà Nẵng - SJC 115.700 ▲800K 117.700 ▲500K
Miền Tây - PNJ 111.500 ▲500K 114.000 ▲400K
Miền Tây - SJC 115.700 ▲800K 117.700 ▲500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.500 ▲500K 114.000 ▲400K
Giá vàng nữ trang - SJC 115.700 ▲800K 117.700 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - SJC 115.700 ▲800K 117.700 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.500 ▲500K 114.000 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.500 ▲500K 114.000 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.000 ▲500K 113.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.890 ▲500K 113.390 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.190 ▲490K 112.690 ▲490K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.970 ▲500K 112.470 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.780 ▲380K 85.280 ▲380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.050 ▲290K 66.550 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.870 ▲210K 47.370 ▲210K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.570 ▲460K 104.070 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.890 ▲310K 69.390 ▲310K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.430 ▲330K 73.930 ▲330K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.830 ▲340K 77.330 ▲340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.210 ▲180K 42.710 ▲180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.110 ▲170K 37.610 ▲170K
Cập nhật: 09/06/2025 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,940 ▼50K 11,360 ▼50K
Trang sức 99.9 10,930 ▼50K 11,350 ▼50K
NL 99.99 10,690 ▼50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,690 ▼50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,150 ▼50K 11,420 ▼50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,150 ▼50K 11,420 ▼50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,150 ▼50K 11,420 ▼50K
Miếng SJC Thái Bình 11,520 ▲30K 11,720
Miếng SJC Nghệ An 11,520 ▲30K 11,720
Miếng SJC Hà Nội 11,520 ▲30K 11,720
Cập nhật: 09/06/2025 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16446 16715 17288
CAD 18500 18777 19394
CHF 31097 31475 32121
CNY 0 3530 3670
EUR 29128 29398 30426
GBP 34528 34920 35855
HKD 0 3187 3390
JPY 173 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15433 16021
SGD 19714 19995 20521
THB 713 776 829
USD (1,2) 25779 0 0
USD (5,10,20) 25818 0 0
USD (50,100) 25846 25880 26221
Cập nhật: 09/06/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,860 25,860 26,220
USD(1-2-5) 24,826 - -
USD(10-20) 24,826 - -
GBP 34,853 34,947 35,878
HKD 3,259 3,269 3,368
CHF 31,266 31,363 32,224
JPY 176.83 177.15 185.08
THB 759.99 769.37 823.15
AUD 16,722 16,783 17,236
CAD 18,772 18,833 19,337
SGD 19,905 19,966 20,597
SEK - 2,664 2,756
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,920 4,055
NOK - 2,539 2,628
CNY - 3,586 3,683
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,987
KRW 17.83 18.59 19.99
EUR 29,284 29,307 30,553
TWD 785.04 - 950.42
MYR 5,744.07 - 6,479.61
SAR - 6,826.45 7,185.06
KWD - 82,701 87,946
XAU - - -
Cập nhật: 09/06/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,870 25,880 26,220
EUR 29,147 29,264 30,377
GBP 34,677 34,816 35,811
HKD 3,254 3,267 3,372
CHF 31,152 31,277 32,186
JPY 176.06 176.77 184.09
AUD 16,631 16,698 17,232
SGD 19,896 19,976 20,520
THB 775 778 813
CAD 18,699 18,774 19,301
NZD 15,465 15,972
KRW 18.33 20.20
Cập nhật: 09/06/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25830 25830 26210
AUD 16592 16692 17259
CAD 18667 18767 19322
CHF 31295 31325 32211
CNY 0 3586.8 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29369 29469 30244
GBP 34784 34834 35947
HKD 0 3270 0
JPY 176.62 177.62 184.19
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15500 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19844 19974 20703
THB 0 739.5 0
TWD 0 850 0
XAU 11100000 11100000 11700000
XBJ 10000000 10000000 11700000
Cập nhật: 09/06/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,870 25,920 26,160
USD20 25,870 25,920 26,160
USD1 25,870 25,920 26,160
AUD 16,657 16,807 17,878
EUR 29,438 29,588 30,763
CAD 18,631 18,731 20,047
SGD 19,930 20,080 20,555
JPY 177.23 178.73 183.38
GBP 34,897 35,047 35,835
XAU 11,518,000 0 11,722,000
CNY 0 3,473 0
THB 0 776 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 09/06/2025 15:00