Hạ lãi vay, nên hay không: Ngân hàng có thể giảm lãi 3% - 5%?

13:11 | 15/08/2021

299 lượt xem
|
Quan điểm của TS Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia Kinh tế về việc "không nước nào "bắt ép" ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay" đã nhận được quan điểm trái chiều.

Cụ thể, chia sẻ trong bài viết đăng trên báo Dân Việt, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia Kinh tế đã nêu quan điểm rằng kiến nghị giảm 3-5%/năm lãi suất cho vay cho các doanh nghiệp phục hồi sản xuất và phát triển, là đề xuất "viển vông", thiếu thực tế.

Hơn 70.000 Gần 60.000 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường qua 6 tháng đầu năm nay
Hơn 70.000 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường qua 6 tháng đầu năm nay. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đã lâm vào tình trạng chờ được "cấp cứu"

Chứng minh cho quan điểm này, ông đưa ra mức biên lãi ròng (NIM) của các ngân hàng thương mại trên thế giới và Việt Nam, từ đó cho rằng "nếu chiếu theo quốc tế, NIM của các ngân hàng thương mại trong nước chỉ có thể giảm thêm 1%, tức lãi suất cho vay cũng chỉ giảm mức tương ứng".

Ngoài ra, ông cũng cho rằng "trên thế giới, không nước nào "bắt ép" ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay. Làm như thế là đang "bắt ép" các ngân hàng thương mại giảm lãi suất trong khi các ngân hàng huy động tiền gửi của dân để cho vay chứ không phải tiền ngân sách. Vì vậy, họ phải có trách nhiệm trả cho khách hàng lãi suất như đã thỏa thuận, và lãi suất đó so với lạm phát phải dương". Chi tiết hơn, theo ông, để giảm lãi suất cho vay từ 3 – 5% thì cũng phải giảm lãi suất tiền gửi ít nhất 3 -5% và lãi của người tiền theo đó chỉ còn 1%, tính theo lạm phát là thực âm.

Cùng bài viết cũng trích dẫn quan điểm của PGS.TS Ngô Trí Long - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính) là trong khi "miếng bánh" giảm lãi vay của các ngân hàng có hạn nhưng doanh nghiệp nào cũng muốn "cắt miếng to", như thế không được. Theo vị chuyên gia này, bản thân ngân hàng cũng là doanh nghiệp, huy động tiền gửi của dân về cho vay và giữa 2 lãi suất huy động và lãi suất cho vay hiện nay chỉ chênh lệch khoảng trên 3%. Trong khi đó, doanh nghiệp đòi giảm từ 3-5%, vậy ngân hàng sống bằng gì?

Ngay sau những chia sẻ có tính chuyên môn trên, chuyên gia Tài chính Lâm Minh Chánh cũng đã lập tức nêu quan điểm, trao đổi trên trang mạng xã hội Facebook của mình. Diễn đàn Doanh nghiệp cũng đã trao đổi chi tiết với ông về các thông tin ông đã "nói lại".

Cụ thể, từ quan điểm ngược lại, chuyên gia Lâm Minh Chánh nêu 2 dữ liệu:

Thứ nhất, chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay của các ngân hàng Việt Nam là rất cao. Ông dẫn báo cáo về ngành ngân hàng của BSC – Công ty chứng khoán thuộc ngân hàng Đầu tư và phát triển để cho thấy chênh lệch này.

(Dữ liệu theo biểu đồ của CTCK BSC)
(Dữ liệu theo biểu đồ của CTCK BSC)

"Theo đó, nhờ vào khá nhiều tiền dân đang để ở tài khoản không kỳ hạn, nên lãi suất huy động bình quân của các ngân hàng rất thấp. Cụ thể ACB: 4%, MBB: 2,7%, TCB: 2,3%, VCB: 2,3%, VPB: 4,8%. Trong khi đó thì lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng rất cao so với lãi suất huy động. Cụ thể ACB: 9,4%, MBB: 9,2%, TCB: 8,7%, VCB: 6,6%, VPB: 17,1%...", chuyên gia phân tích.

Cũng theo vị chuyên gia này, ông khẳng định: Dĩ nhiên ngân hàng không thể cho vay hết số tiền họ huy động. Số trung bình hiện tại là 80%- 85%, dẫn đến NIM bình quân khoảng từ 3,5% - 4,2%.

Thứ hai, năm 2020 - Covid năm 1: Các ngân hàng đều báo lợi nhuận khủng; Năm 2021- Covid năm 2, lợi nhuận 6 tháng đầu năm của các ngân hàng đều tăng trưởng mạnh so với 2020.

Ví dụ: Lợi nhuận sau thuế của ACB nguyên năm 2020: 7.682 tỷ; nửa năm đầu 2021: 5.071 tỷ, tăng 66% so với cùng kỳ năm 2020.

Lợi nhuận sau thuế của BIDV nguyên năm 2020: 6.962 tỷ; nửa năm đầu 2021: 6.356 tỷ, tăng 83% so với cùng kỳ năm 2020.

Lợi nhuận sau thuế của VietinBank nguyên năm 2020: 13.693 tỷ; nửa năm đầu 2021: 8.667 tỷ, tăng 45% so với cùng kỳ năm 2020.

Lợi nhuận sau thuế của MBB nguyên năm 2020: 8.262 tỷ; nửa năm đầu 2021: 6.148 tỷ, tăng 55% so với cùng kỳ năm 2020.

Lợi nhuận sau thuế của TCB nguyên năm 2020: 12.324 tỷ; Nửa năm đầu 2021: 9.107 tỷ, tăng 73% so với cùng kỳ năm 2020.

Lợi nhuận sau thuế của VCB nguyên năm 2020: 18.451 tỷ; Nửa năm đầu 2021: 10.857 tỷ, tăng 24% so với cùng kỳ năm 2020.

Lợi nhuận sau thuế của VPB nguyên năm 2020: 10.413 tỷ; nửa năm đầu 2021: 7.217 tỷ, tăng 37% so với cùng kỳ năm 2020.

"Một số ý kiến cho rằng ngân hàng đạt lợi nhuận lớn từ các hoạt động dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, trái phiếu, nghiệp vụ liên ngân hàng, bảo hiểm nhân thọ... Nhưng thực tế, theo các báo cáo tài chính thì thu nhập khủng của đa số các ngân hàng thương mại cổ phần đều đến từ thu nhập lãi thuần (tức phần chênh lệch từ lãi cho vay - lãi huy động). Bình quân, thu nhập lãi thuần chiếm từ 80% - 90% của tổng thu nhập các ngân hàng. Một số khác cũng cho rằng ngân hàng sẽ giảm lợi nhuận thậm chí lỗ nếu trừ nợ xấu. Tôi nghĩ rằng các ngân hàng đã dự phòng nợ xấu hợp lý khi tính toán kết quả kinh doanh. Đa số các lãnh đạo ngân hàng sẽ không báo cáo lợi nhuận khủng, tăng trưởng khủng mà không dự phòng cho nợ xấu. Nếu họ không dự phòng nợ xấu, mà lại báo cáo lãi khủng thì họ tự đưa tròng vào cổ mình", ông bổ sung.

"Ngân hàng, tự bản thân họ, cũng phải rất giỏi, quản lý tốt thì kinh doanh mới hiệu quả, mới đạt lợi nhuận cao như vậy. Nhưng 2 dữ liệu nói trên cho thấy ngân hàng đang “sống” khỏe. Chắc chúng ta không cần phải lo ngân hàng sống bằng gì. Thật ra thì giảm lãi suất thì sẽ ảnh hưởng đến nhiều vấn đề khác. Tuy vậy, giảm lãi suất các ngân hàng không “chết” đâu, vì họ luôn luôn hưởng sự chênh lệch và họ đang “sống” khỏe lắm", chuyên gia Lâm Minh Chánh khẳng định.

Đề xuất giảm lãi suất vay đã được các doanh nghiệp kiến nghị trong đợt bùng phát COVID-19 lần thứ tư. Theo đó, Hiệp hội doanh nghiệp trẻ Việt Nam đã kiến nghị giảm lãi suất vay đồng loạt cho các khoản vay từ mức 2%.

Các doanh nghiệp SME mong đợi được giảm lãi suất mức tăng dần lên, tương ứng với khó khăn của đại dịch. Trong các đợt dịch trước và đầu con sóng COVID-19 lần thứ tư, nhiều doanh nghiệp còn hoạt động cầm chừng trong giãn cách như thế này, nhưng hiện tại thì để thực hiện nghiêm giãn cách xã hội
Trong các đợt dịch trước và đầu con sóng COVID-19 lần thứ tư, nhiều doanh nghiệp còn hoạt động cầm chừng trong giãn cách như thế này, nhưng hiện tại thì để thực hiện nghiêm giãn cách xã hội "ai ở đâu yên đó", nhiều doanh nghiệp kể cả nhóm bán lẻ, dịch vụ...cũng đã phải đóng cửa

Ngày 8/7/2021, tại Diễn đàn trực tuyến "Hợp tác doanh nghiệp và báo chí trong môi trường biến đổi" do Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức, TS. Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch thường trực, Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Hà Nội (HNSMEs) thì nêu 10 kiến nghị để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trụ vững qua đại dịch COVID. Trong đó, ông đề xuất 3 vấn đề liên quan trực tiếp đến hỗ trợ ngân hàng cho doanh nghiệp là: 1) Ngân hàng Nhà nước cần sớm có chỉ đạo ra soát khó khăn của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi VOCID-19, trên cơ sở đó, các khoản nợ đến kỳ hạn phải trả gốc, trả lãi và cho phép các doanh nghiệp bị ảnh hưởng có những hợp đồng tốt, lịch sử trả nợ tốt, đúng hạn, đến kỳ trả nợ gốc và lãi được đề xuất khoanh lại đến tháng 12/ 2022 mà không bị phạt và được loại khỏi nhóm nợ xấu, để doanh nghiệp có thời gian phục hồi. 2) Đề nghị Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu tiếp tục thực hiện chính sách cơ cấu giãn nợ, vay đối với khoản nợ phát sinh của 2021, không chuyển nhóm nợ cho đến 31/12/2022, vì vấn đề này theo Thông tư số 01/2020 là quy định chỉ áp dụng cho những khoản nợ vay phát sinh trước 31/12/2020. 3) Đề nghị mở rộng đối tượng được giảm 2% cho vay trực tiếp theo Nghị quyết 84 ngày 29/5/2020. Hiện nay, Nghị quyết quy định các đối tượng được giảm quá nhỏ, trong khi có những ngành khác bị ảnh hưởng như du lịch, khách sạn, nhà hàng nhưng lại không ở trong nhóm này.

Gần nhất, lãnh đạo HNSME đã nêu kiến nghị ở mức cao hơn với mong muốn ngân hàng giảm lãi từ 3%-5% cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi khó khăn của doanh nghiệp đã tăng cao hơn, khi dịch bùng phát mạnh và giãn cách xã hội tiếp tục kéo dài tại nhiều địa phương. Đây cũng là kiến nghị được nhiều doanh nghiệp SME trên cả nước ủng hộ và mong đợi.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Đề xuất giảm tới 5% lãi suất cho vay: Tiền của ai?Đề xuất giảm tới 5% lãi suất cho vay: Tiền của ai?
MB góp thêm 60 tỷ đồng phòng, chống dịch Covid-19MB góp thêm 60 tỷ đồng phòng, chống dịch Covid-19
Gói 1.000 tỷ USD của Mỹ tác động ra sao đến thị trường tài chính?Gói 1.000 tỷ USD của Mỹ tác động ra sao đến thị trường tài chính?

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 122,200 ▲500K 123,800 ▲500K
AVPL/SJC HCM 122,200 ▲500K 123,800 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 122,200 ▲500K 123,800 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,000 ▲50K 11,100 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,990 ▲50K 11,090 ▲50K
Cập nhật: 05/08/2025 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117,500 ▲500K 120,000 ▲500K
Hà Nội - PNJ 117,500 ▲500K 120,000 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 117,500 ▲500K 120,000 ▲500K
Miền Tây - PNJ 117,500 ▲500K 120,000 ▲500K
Tây Nguyên - PNJ 117,500 ▲500K 120,000 ▲500K
Đông Nam Bộ - PNJ 117,500 ▲500K 120,000 ▲500K
Cập nhật: 05/08/2025 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,440 ▲20K 11,890 ▲20K
Trang sức 99.9 11,430 ▲20K 11,880 ▲20K
NL 99.99 10,790 ▼50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,790 ▼50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,650 ▲20K 11,950 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,650 ▲20K 11,950 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,650 ▲20K 11,950 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 12,220 ▲50K 12,380 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 12,220 ▲50K 12,380 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 12,220 ▲50K 12,380 ▲50K
Cập nhật: 05/08/2025 16:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,222 ▲5K 12,382 ▲50K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,222 ▲5K 12,383 ▲50K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,168 ▲5K 1,193 ▲5K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,168 ▲5K 1,194 ▲5K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,168 ▲5K 1,187 ▲5K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 113,025 ▲101772K 117,525 ▲105822K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 82,284 ▲375K 89,184 ▲375K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 73,974 ▲340K 80,874 ▲340K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 65,664 ▲305K 72,564 ▲305K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 62,459 ▲292K 69,359 ▲292K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 42,753 ▲209K 49,653 ▲209K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,222 ▲5K 1,238 ▲5K
Cập nhật: 05/08/2025 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16399 16667 17241
CAD 18467 18744 19361
CHF 31687 32067 32723
CNY 0 3570 3690
EUR 29626 29897 30925
GBP 34013 34403 35339
HKD 0 3210 3412
JPY 170 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 15130 15719
SGD 19799 20081 20604
THB 725 788 842
USD (1,2) 25962 0 0
USD (5,10,20) 26002 0 0
USD (50,100) 26031 26065 26407
Cập nhật: 05/08/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,006 26,006 26,366
USD(1-2-5) 24,966 - -
USD(10-20) 24,966 - -
GBP 34,363 34,456 35,314
HKD 3,277 3,286 3,386
CHF 31,971 32,071 32,876
JPY 174.72 175.04 182.46
THB 771.59 781.12 835.66
AUD 16,655 16,715 17,187
CAD 18,686 18,746 19,284
SGD 19,952 20,014 20,688
SEK - 2,661 2,752
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,986 4,124
NOK - 2,506 2,592
CNY - 3,597 3,695
RUB - - -
NZD 15,106 15,246 15,690
KRW 17.42 18.17 19.61
EUR 29,826 29,849 31,051
TWD 790.8 - 956.67
MYR 5,790.16 - 6,531.11
SAR - 6,862.61 7,222.57
KWD - 83,375 88,641
XAU - - -
Cập nhật: 05/08/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,045 26,050 26,390
EUR 29,669 29,788 30,911
GBP 34,183 34,320 35,303
HKD 3,275 3,288 3,393
CHF 31,792 31,920 32,819
JPY 173.86 174.56 181.96
AUD 16,589 16,656 17,196
SGD 19,992 20,072 20,617
THB 788 791 827
CAD 18,675 18,750 19,272
NZD 15,191 15,695
KRW 18.07 19.82
Cập nhật: 05/08/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26035 26035 26395
AUD 16577 16677 17248
CAD 18667 18767 19321
CHF 31976 32006 32892
CNY 0 3612.3 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4100 0
EUR 29910 30010 30783
GBP 34274 34324 35443
HKD 0 3330 0
JPY 174.33 175.33 181.85
KHR 0 6.347 0
KRW 0 18.6 0
LAK 0 1.155 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2575 0
NZD 0 15241 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2735 0
SGD 19956 20086 20819
THB 0 754.4 0
TWD 0 885 0
XAU 11900000 11900000 12380000
XBJ 10600000 10600000 12380000
Cập nhật: 05/08/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,040 26,090 26,340
USD20 26,040 26,090 26,340
USD1 26,040 26,090 26,340
AUD 16,619 16,719 17,839
EUR 29,941 29,941 31,275
CAD 18,611 18,711 20,027
SGD 20,030 20,180 20,654
JPY 172 173.73 182.92
GBP 34,365 34,515 35,294
XAU 12,218,000 0 12,382,000
CNY 0 3,496 0
THB 0 790 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 05/08/2025 16:00