Lệnh cấm vận dầu Nga của phương Tây đang ‘đuối sức’?

14:57 | 05/02/2023

1,724 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
The Economist (Anh) cho rằng, các đợt cấm vận mới của phương Tây đối với dầu mỏ Nga, có hiệu lực từ ngày 5/2, sẽ không thể gây áp lực với Moscow.
Áp giá trần dầu Nga: Moscow đã có sẵn 'đường lui', thà bán dầu lỗ chứ quyết không nhượng bộ phương Tây?. (Nguồn: Reuters)
Các lệnh trừng phạt của phương Tây về dầu mỏ đối với Nga không còn hiệu quả. (Nguồn: Reuters)

Tháng 12/2022, phương Tây tung ra gói trừng phạt trong lĩnh vực năng lượng chưa từng có với một quốc gia nhằm triệt tiêu nguồn thu từ dầu mỏ của Moscow. Chúng bao gồm cấm nhập khẩu dầu thô từ Nga; ngăn các công ty châu Âu làm trung gian thúc đẩy các thương vụ mua bán dầu Nga, trừ khi hợp đồng mua bán dầu được thực hiện với giá dưới 60 USD/thùng, con số do các nước phương Tây áp đặt.

Sau hơn 2 tháng áp dụng, không ít người cho rằng, mức giá trần này này đã đạt thành công đáng kể. Bên cạnh đó, đợt trừng phạt mới của châu Âu đối với dầu Diesel và các chế phẩm từ dầu mỏ khác chính thức có hiệu lực từ ngày 5/2.

Tuy nhiên, báo cáo của The Economist lại cho thấy, trên thực tế, các đợt trừng phạt đã qua và nhiều khả năng cả đợt trừng phạt mới đã, sẽ không mang lại nhiều tác dụng như tưởng tượng.

Tại sao lại có câu chuyện này?

Khi chiêu cũ là chưa đủ…

Cụ thể, chính sách cấm-và-áp giá tháng 12/2022 đã không ảnh hưởng đáng kể tới sản lượng dầu thô bán ra của Nga. Trên thực tế, trong lúc các doanh nghiệp châu Âu đang loay hoay để tìm cách đáp ứng mức giá trần mới, các tuyến tàu chở dầu đã nhộn nhịp trở lại - với điểm đến là Trung Quốc và Ấn Độ thay vì châu Âu.

Thống kê cho thấy, trong 4 tuần đầu tiên của năm 2023 (tính đến ngày 29/1) xuất khẩu dầu thô của Nga, không bao gồm dầu cpc (một loại dầu pha của Kazakhstan được vận chuyển từ Nga), đạt 3,7 triệu thùng/ngày. Đây là con số cao nhất kể từ tháng 6/2022 và nhiều hơn bất kỳ một tháng nào trong năm 2021.

Những người ủng hộ áp giá trần sẽ cho rằng, đây là bằng chứng cho sự thành công của chính sách này: Bảo đảm nguồn dầu từ Nga tiếp tục lưu thông để ổn định thị trường, nhưng hạn chế giá thành để siết chặt nguồn lợi nhuận chảy về túi Moscow. Họ nhận định, giá trần này sẽ giúp người mua có ưu thế hơn trong thương lượng, trong khi quãng đường vận chuyển dài hơn đồng nghĩa chi phí bến bãi, container và nhiên liệu tăng, buộc Nga sẽ phải bồi thường cho các khách hàng.

Đồng thời, một số khác cũng nhấn mạnh tới sự khác biệt về giá giữa dầu Brent và dầu Ural được các cơ quan phương Tây thống kê. Sự chênh lệch này đã manh nha xuất hiện sau khi xung đột Nga-Ukraine bùng phát và hiện đã đạt mức 32 USD/thùng. Như vậy, hiện dầu Nga đang được giao dịch ở mức giá giảm tới 38%.

Ngày 10/1, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen, người đã đề xuất áp giá trần dầu Nga, cho rằng, chính sách này đang đạt được nhiều bước tiến tích cực.

Biểu đồ của The Economist cho thấy Ấn Độ và Trung Quốc đang thay thế châu Âu trở thành khách hàng mua dầu lớn của Nga. (Nguồn: The Economist)

Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ, các cơ quan này chưa thay đổi phương thức theo dõi giá cả thị trường, trong bối cảnh dầu Nga không còn được giao dịch ở các kênh công khai mà họ có thể nắm bắt. Giới lọc dầu và các nhà giao dịch ở châu Âu từng chia sẻ thông tin về biến động giá cả, song thị trường Ấn Độ thì không.

Đồng thời, các cơ quan này cũng chỉ dựa vào những chỉ dấu công khai để ước lượng chi phí vận chuyển giữa các cảng phía Tây của Nga và kho chứa châu Âu, song chi phí vận chuyển dầu từ Nga sang châu Á lại thường không được tiết lộ.

Do đó, mức giá giảm được các quan chức phương Tây thống kê là không chính xác và thường bị thổi phòng lên. Trong khi đó, dữ liệu hải quan từ Ấn Độ và Trung Quốc cho thấy, hai nước này đã chi nhiều tiền hơn cho dầu Ural trong mùa Đông hơn bình thường.

Công cuộc nắm bắt giá cả thực sự cũng khó khăn hơn khi tất cả các bên đều có lợi nếu chứng minh rằng mình đã giao dịch dầu ở giá thấp. Doanh nghiệp dầu thô Nga có xu hướng hạ thấp các hóa đơn về, trong khi các nhà lọc dầu Ấn Độ muốn tối đa hóa lợi nhuận trong giao dịch với nhà phân phối.

Đặc biệt, các “cỗ máy xuất khẩu” của Nga đã giảm sự phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng tài chính, vận chuyển của phương Tây, qua đó thoát khỏi phạm vi trừng phạt.

Các giao dịch ngầm sử dụng hệ thống song song ngày một nở rộ. Trước tháng 12/2022, hơn một nửa giao dịch dầu thô từ cảng phía Tây của Nga được triển khai thông qua một doanh nghiệp vận tải hoặc tài chính châu Âu. Tuy nhiên, con số này hiện chỉ còn ở mức 36%.

Trước tháng 12/2022, hơn một nửa giao dịch dầu thô từ cảng phía Tây của Nga được triển khai thông qua một doanh nghiệp vận tải hoặc tài chính châu Âu. Tuy nhiên, con số này hiện chỉ còn ở mức 36%.

…liệu sách mới có khác?

Liệu các đợt trừng phạt mới nhắm vào dầu tinh chế sẽ khiến Nga tổn hại hơn? Thoạt nhìn, chúng được coi là có thể tác động đáng kể tới xuất khẩu dầu Diesel và một số chế phẩm khác trong ngắn hạn.

Theo đó, từ ngày 5/2/2023, châu Âu dừng việc mua các sản phẩm này, đồng thời buộc các doanh nghiệp vận chuyển và bảo hiểm cho những mặt hàng nêu trên phải tuân thủ quy định về giá trần.

Nga sẽ không dễ tìm những khách hàng mới để bù đắp cho sự thiếu hụt do châu Âu để lại: Cả Trung Quốc và Ấn Độ đều có nhà máy lọc dầu của riêng mình, trong khi thay thế các tàu chở dầu của châu Âu là công việc không hề đơn giản. Việc hàng loạt chế phẩm từ dầu mỏ, hiện chiếm tới 1/3 thu nhập từ xuất khẩu dầu mỏ của xứ bạch dương, vắng người mua có thể khiến cho giá cả toàn cầu tăng.

Tuy nhiên, qua thời gian, các tác động này sẽ dần phai nhạt. Một khi không thể bán được dầu tinh chế, Nga có thể sẽ tăng xuất khẩu dầu thô, qua đó tiếp tục thúc đẩy các giao dịch ngầm.

Ở chiều ngược lại, không loại trừ khả năng châu Âu sẽ quay sang Trung Quốc và Ấn Độ để tìm kiếm nguồn dầu Diesel, dù chúng được sản xuất từ dầu thô của Nga. Một khi dòng dầu của Moscow chảy ra khỏi tầm kiểm soát của phương Tây, các biện pháp cấm vận sẽ ngày một ít tác dụng.

Giới phân tích nhận định, các lệnh trừng phạt sẽ không thể thay thế cho viện trợ tài chính và quân sự dành cho Ukraine. Cấm vận dầu Nga sẽ không thể thay đổi cục diện xung đột hiện nay.

Điện Kremlin cảnh báo nguy cơ đằng sau lệnh cấm vận của EUĐiện Kremlin cảnh báo nguy cơ đằng sau lệnh cấm vận của EU
Giá dầu thô ghi nhận tuần mất giá mạnhGiá dầu thô ghi nhận tuần mất giá mạnh
Xăng dầu của Nga chính thức bị áp giá trầnXăng dầu của Nga chính thức bị áp giá trần

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,500 ▼5500K 119,500 ▼4500K
AVPL/SJC HCM 116,500 ▼5500K 119,500 ▼4500K
AVPL/SJC ĐN 116,500 ▼5500K 119,500 ▼4500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,230 ▼470K 11,440 ▼370K
Nguyên liệu 999 - HN 11,220 ▼470K 11,430 ▼370K
Cập nhật: 23/04/2025 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.700 ▼4300K 115.900 ▼4100K
TPHCM - SJC 116.500 ▼5500K 119.500 ▼4500K
Hà Nội - PNJ 112.700 ▼4300K 115.900 ▼4100K
Hà Nội - SJC 116.500 ▼5500K 119.500 ▼4500K
Đà Nẵng - PNJ 112.700 ▼4300K 115.900 ▼4100K
Đà Nẵng - SJC 116.500 ▼5500K 119.500 ▼4500K
Miền Tây - PNJ 112.700 ▼4300K 115.900 ▼4100K
Miền Tây - SJC 116.500 ▼5500K 119.500 ▼4500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.700 ▼4300K 115.900 ▼4100K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.500 ▼5500K 119.500 ▼4500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.700 ▼4300K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.500 ▼5500K 119.500 ▼4500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.700 ▼4300K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.700 ▼4300K 115.900 ▼4100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.700 ▼4300K 115.900 ▼4100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.700 ▼4300K 115.200 ▼4300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.590 ▼4290K 115.090 ▼4290K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.880 ▼4260K 114.380 ▼4260K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.650 ▼4260K 114.150 ▼4260K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.050 ▼3230K 86.550 ▼3230K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.040 ▼2520K 67.540 ▼2520K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.570 ▼1790K 48.070 ▼1790K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.120 ▼3940K 105.620 ▼3940K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.920 ▼2630K 70.420 ▼2630K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.530 ▼2800K 75.030 ▼2800K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.990 ▼2920K 78.490 ▼2920K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.850 ▼1610K 43.350 ▼1610K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.670 ▼1420K 38.170 ▼1420K
Cập nhật: 23/04/2025 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,120 ▼400K 11,640 ▼400K
Trang sức 99.9 11,110 ▼400K 11,630 ▼400K
NL 99.99 11,120 ▼400K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,120 ▼400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,350 ▼400K 11,650 ▼400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,350 ▼400K 11,650 ▼400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,350 ▼400K 11,650 ▼400K
Miếng SJC Thái Bình 11,650 ▼550K 11,950 ▼450K
Miếng SJC Nghệ An 11,650 ▼550K 11,950 ▼450K
Miếng SJC Hà Nội 11,650 ▼550K 11,950 ▼450K
Cập nhật: 23/04/2025 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16143 16410 17000
CAD 18302 18578 19206
CHF 30983 31361 32028
CNY 0 3358 3600
EUR 29054 29323 30373
GBP 33829 34219 35175
HKD 0 3220 3424
JPY 176 180 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15268 15870
SGD 19305 19585 20112
THB 693 757 811
USD (1,2) 25739 0 0
USD (5,10,20) 25778 0 0
USD (50,100) 25806 25840 26141
Cập nhật: 23/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,781 25,781 26,141
USD(1-2-5) 24,750 - -
USD(10-20) 24,750 - -
GBP 34,098 34,190 35,110
HKD 3,287 3,297 3,397
CHF 31,117 31,214 32,080
JPY 179.31 179.63 187.65
THB 739.34 748.48 801.05
AUD 16,379 16,439 16,883
CAD 18,525 18,585 19,084
SGD 19,461 19,521 20,140
SEK - 2,664 2,759
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,897 4,032
NOK - 2,457 2,545
CNY - 3,516 3,612
RUB - - -
NZD 15,186 15,327 15,778
KRW 16.87 17.6 18.91
EUR 29,138 29,161 30,408
TWD 721.16 - 872.51
MYR 5,505.77 - 6,210.77
SAR - 6,804.87 7,162.65
KWD - 82,659 87,891
XAU - - -
Cập nhật: 23/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,790 25,800 26,140
EUR 29,018 29,135 30,224
GBP 33,928 34,064 35,035
HKD 3,281 3,294 3,401
CHF 31,000 31,124 32,021
JPY 178.25 178.97 186.43
AUD 16,290 16,355 16,884
SGD 19,459 19,537 20,068
THB 754 757 790
CAD 18,450 18,524 19,041
NZD 15,288 15,798
KRW 17.38 19.16
Cập nhật: 23/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25828 25828 26140
AUD 16329 16429 16997
CAD 18484 18584 19138
CHF 31228 31258 32155
CNY 0 3533 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29256 29356 30232
GBP 34150 34200 35303
HKD 0 3330 0
JPY 180.27 180.77 187.28
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15384 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19460 19590 20320
THB 0 722.5 0
TWD 0 790 0
XAU 11650000 11650000 11950000
XBJ 11000000 11000000 11950000
Cập nhật: 23/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,141
USD20 25,770 25,820 26,141
USD1 25,770 25,820 26,141
AUD 16,330 16,480 17,560
EUR 29,240 29,390 30,585
CAD 18,359 18,459 19,788
SGD 19,488 19,638 20,123
JPY 179.93 181.43 186.16
GBP 34,116 34,266 35,069
XAU 11,798,000 0 12,052,000
CNY 0 3,406 0
THB 0 756 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 23/04/2025 21:00