Nhịp đập năng lượng ngày 4/7/2023

20:00 | 04/07/2023

6,497 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Phụ tải toàn hệ thống điện tiếp tục tăng; Các thành viên OPEC+ nỗ lực thúc đẩy giá dầu; IEA cảnh báo giá năng lượng tăng đột biến trong mùa đông này… là những tin tức nổi bật về năng lượng trong nước và quốc tế ngày 4/7/2023.
Nhịp đập năng lượng ngày 4/7/2023
Ảnh minh họa: Nguyễn Trường Sơn

Phụ tải toàn hệ thống điện tiếp tục tăng

Số liệu thống kê từ Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia cho thấy, phụ tải toàn hệ thống điện ngày 3/7 đạt 831,8 triệu kWh tăng 75,6 triệu kWh so với ngày 2/7. Trong đó miền Bắc nhu cầu điện ước khoảng 428,4 triệu kWh, tăng khoảng 6 triệu kWh so với ngày 2/7, miền Trung khoảng 79,1 triệu kWh tăng 5,1 triệu kWh, miền Nam khoảng 323,9 triệu kWh tăng 67,3 triệu kWh so với ngày 2/7.

Công suất đỉnh hệ thống điện (Pmax) vào lúc 14h00 đạt 41.721,4 MW tăng 33.899,4 MW tăng 7.822 MW so với ngày 2/7. Công suất đỉnh ở miền Nam đạt 17.241,9 MW vào lúc 14h30. Trong khi đó công suất đỉnh ở miền Bắc đạt 20.727,2 MW vào lúc 13h30, ở miền Trung đạt 3.973,2 MW vào lúc 14h00.

Tổng sản lượng huy động từ thủy điện đạt khoảng 225,8 triệu kWh tăng 32 triệu kWh so với ngày 1/7 (miền Bắc là 118,8 triệu kWh tăng 22,1 triệu kWh so với ngày 2/7); Nhiệt điện than huy động 421,4 triệu kWh tăng 20,6 triệu kWh so với ngày 2/7 (miền Bắc đạt 272,1 triệu kWh tăng 9,5 triệu kWh so với ngày 2/7); Turbine khí huy động 76,6 triệu MW; điện năng lượng tái tạo đạt 67,4 triệu kWh. Nguồn điện dầu không phải huy động.

Các thành viên OPEC+ nỗ lực thúc đẩy giá dầu

Saudi Arabia, Nga và Algeria - các thành viên của nhóm Tổ chức Các nước sản xuất dầu mỏ và các đối tác (OPEC+) vừa tuyên bố sẽ cắt giảm thêm sản lượng khai thác hoặc kéo dài biện pháp giảm sản lượng khai thác dầu thô như hiện nay nhằm thúc đẩy giá dầu trong bối cảnh nhu cầu sử dụng nhiên liệu toàn cầu suy yếu.

Saudi Arabia cho biết sẽ kéo dài việc giảm sản lượng khai thác 1 triệu thùng/ngày sang tháng 8/2023, thay vì kết thúc trong tháng 7/2023 như kế hoạch ban đầu. Đồng thời, nước này để ngỏ khả năng kéo dài việc giảm sản lượng khai thác. Như vậy, sản lượng khai thác của nước này sẽ chỉ còn khoảng 9 triệu thùng/ngày - mức thấp kỷ lục trong nhiều năm trở lại đây.

Ngay sau đó, Phó Thủ tướng Nga Alexander Novak tuyên bố Nga sẽ giảm xuất khẩu dầu khoảng 500.000 thùng/ngày trong tháng 8/2023. Trước đó, Nga đã cam kết giảm sản lượng khoảng 500.000 thùng/ngày, xuống còn 9,5 triệu thùng/ngày từ tháng 3/2023 cho đến cuối năm 2023. Với tuyên bố mới đưa ra, sản lượng xuất khẩu của nước này có thể chỉ còn khoảng 9 triệu thùng/ngày.

Bộ Năng lượng Algeria cũng cho biết nước này sẽ giảm sản lượng khai thác thêm 20.000 thùng/ngày trong tháng 8/2023 để ủng hộ nỗ lực cân bằng thị trường dầu mỏ của Saudi Arabia và Nga.

IEA cảnh báo giá năng lượng tăng đột biến trong mùa đông này

Ông Fatih Birol - người đứng đầu Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cảnh báo giá năng lượng có thể tăng trở lại vào mùa đông này. Theo ông Birol, nếu sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc sau đại dịch tăng tốc vào cuối năm nay và mùa đông ở Bắc bán cầu khắc nghiệt hơn năm ngoái, thì giá cả sẽ tăng. Nếu điều đó xảy ra, các chính phủ sẽ cần phải vào cuộc một lần nữa, đồng thời với việc cung cấp các khoản trợ cấp cho doanh nghiệp và hộ gia đình.

"Trong một kịch bản mà nền kinh tế Trung Quốc rất mạnh, mua nhiều năng lượng từ thị trường và mùa đông khắc nghiệt, chúng ta có thể thấy áp lực tăng giá mạnh đối với giá khí đốt tự nhiên, do đó sẽ tạo thêm gánh nặng cho người tiêu dùng, ông Fatih Birol nói với BBC. Hơn nữa, ông Birol cho biết không thể loại trừ khả năng mất điện vào mùa đông, đó có thể là “một phần của trò chơi”.

Tháng trước, ông Klaus Mueller - người đứng đầu cơ quan quản lý năng lượng của Đức đã đưa ra cảnh báo tương tự cho mùa đông 2023/24. Phát biểu trước truyền thông địa phương, ông Mueller cho biết cuộc khủng hoảng năng lượng ở châu Âu vẫn chưa kết thúc và nếu mùa đông lạnh giá, nguồn cung có thể thiếu cầu.

Chủ tịch COP28 cam kết tăng sản lượng nhiên liệu tái tạo

Ngày 3/7, Các Tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE) - nước chủ nhà Hội nghị lần thứ 28 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP28) dự kiến diễn ra vào cuối năm nay, cho biết sẽ tăng gấp 3 sản lượng sản xuất năng lượng tái tạo. UAE coi đây là một phần của hàng loạt sáng kiến nhằm bảo vệ môi trường của nước này.

Phát biểu sau một cuộc họp nội các, Thủ tướng UAE Sheikh Mohammed bin Rashid Al Maktoum cho biết các bộ trưởng đã thông qua bản cập nhật của "chiến lược quốc gia về năng lượng" nhằm tăng gấp 3 nguồn cung năng lượng tái tạo trong vòng 7 năm tới. Chiến lược sẽ giúp UAE đáp ứng được nhu cầu sử dụng điện ngày càng gia tăng. Để triển khai chiến lược, ước tính cần đến 200 tỷ dirham (tương đương khoảng 54 tỷ USD).

UAE cũng đã công bố các chiến lược quốc gia về sản xuất xe chạy bằng hydro và bằng điện. Chiến lược này nhằm củng cố vị thế của UAE là một nước sản xuất và xuất khẩu năng lượng hydrogen phát thải thấp trong vòng 8 năm tới thông qua việc phát triển các chuỗi cung ứng, cơ sở hạ tầng và thiết lập trung tâm nghiên cứu và phát triển.

Ấn Độ nhập kỷ lục dầu Nga

Lượng dầu Nga chảy vào Ấn Độ liên tục lập kỷ lục trong những tháng gần đây. Ngoài tiêu thụ trong nước, lượng lớn dầu thô giá rẻ của Nga sẽ được tinh chế thành dầu diesel và bán sang châu Âu với giá cao, theo Bloomberg.

Theo ông Viktor Katona, Trưởng bộ phận Phân tích dầu thô tại hãng dữ liệu Kpler, nhập khẩu dầu Nga của Ấn Độ đã tiếp tục lập đỉnh trong tháng 6 lên mức 2,2 triệu thùng/ngày, ghi nhận tăng tháng thứ 10 liên tiếp. Lượng dầu Nga chảy vào Ấn Độ thậm chí còn lớn hơn tổng lượng dầu nước này mua từ Iraq và Arab Saudi.

Theo dữ liệu từ Kpler, Tập đoàn Dầu khí Ấn Độ (Indian Oil), thuộc sở hữu nhà nước, là khách mua dầu thô lớn nhất của Nga trong hai tháng qua. Đứng ở vị trí thứ 2 là đế chế Reliance Industries của tỷ phú Mukesh Ambani. Không chỉ dầu thô, trong tháng 6, Ấn Độ cũng nhập khẩu kỷ lục 1,5 triệu thùng dầu Urals từ Nga mỗi ngày.

Nhịp đập năng lượng ngày 2/7/2023Nhịp đập năng lượng ngày 2/7/2023
Nhịp đập năng lượng ngày 3/7/2023Nhịp đập năng lượng ngày 3/7/2023

H.T (t/h)

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,000 118,000
AVPL/SJC HCM 116,000 118,000
AVPL/SJC ĐN 116,000 118,000
Nguyên liệu 9999 - HN 11,330 11,610
Nguyên liệu 999 - HN 11,320 11,600
Cập nhật: 22/04/2025 01:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.500 116.900
TPHCM - SJC 116.000 118.000
Hà Nội - PNJ 113.500 116.900
Hà Nội - SJC 116.000 118.000
Đà Nẵng - PNJ 113.500 116.900
Đà Nẵng - SJC 116.000 118.000
Miền Tây - PNJ 113.500 116.900
Miền Tây - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.500 116.900
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.500 116.900
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.500 116.900
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.500 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.380 115.880
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.670 115.170
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.440 114.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.650 87.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.510 68.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.910 48.410
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.860 106.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.410 70.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.050 75.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.530 79.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.150 43.650
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.930 38.430
Cập nhật: 22/04/2025 01:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,220 11,790
Trang sức 99.9 11,210 11,780
NL 99.99 11,220
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,220
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 11,800
Miếng SJC Thái Bình 11,600 11,800
Miếng SJC Nghệ An 11,600 11,800
Miếng SJC Hà Nội 11,600 11,800
Cập nhật: 22/04/2025 01:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16114 16381 16967
CAD 18223 18499 19124
CHF 31491 31871 32527
CNY 0 3358 3600
EUR 29270 29540 30573
GBP 33889 34278 35229
HKD 0 3203 3405
JPY 177 181 187
KRW 0 0 18
NZD 0 15258 15851
SGD 19331 19611 20141
THB 697 760 814
USD (1,2) 25615 0 0
USD (5,10,20) 25653 0 0
USD (50,100) 25681 25715 26060
Cập nhật: 22/04/2025 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,700 25,700 26,060
USD(1-2-5) 24,672 - -
USD(10-20) 24,672 - -
GBP 34,226 34,318 35,228
HKD 3,275 3,285 3,385
CHF 31,600 31,698 32,587
JPY 180.2 180.52 188.59
THB 745.03 754.23 807.01
AUD 16,392 16,451 16,902
CAD 18,498 18,557 19,056
SGD 19,531 19,592 20,212
SEK - 2,674 2,768
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,933 4,069
NOK - 2,445 2,531
CNY - 3,513 3,609
RUB - - -
NZD 15,214 15,356 15,808
KRW 16.96 - 19
EUR 29,403 29,427 30,686
TWD 720.96 - 872.84
MYR 5,536.18 - 6,245.4
SAR - 6,781.86 7,138.75
KWD - 82,281 87,521
XAU - - -
Cập nhật: 22/04/2025 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,700 25,720 26,060
EUR 29,244 29,361 30,452
GBP 34,008 34,145 35,117
HKD 3,270 3,283 3,390
CHF 31,496 31,622 32,544
JPY 179.63 180.35 187.93
AUD 16,241 16,306 16,835
SGD 19,514 19,592 20,127
THB 760 763 797
CAD 18,425 18,499 19,017
NZD 15,221 15,730
KRW 17.46 19.26
Cập nhật: 22/04/2025 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25700 25700 26060
AUD 16273 16373 16935
CAD 18402 18502 19060
CHF 31717 31747 32621
CNY 0 3515.9 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29423 29523 30401
GBP 34169 34219 35340
HKD 0 3330 0
JPY 180.91 181.41 187.94
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15344 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19477 19607 20339
THB 0 726.6 0
TWD 0 790 0
XAU 11600000 11600000 11800000
XBJ 11200000 11200000 11800000
Cập nhật: 22/04/2025 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,695 25,745 26,120
USD20 25,695 25,745 26,120
USD1 25,695 25,745 26,120
AUD 16,331 16,481 17,543
EUR 29,592 29,742 30,915
CAD 18,350 18,450 19,770
SGD 19,566 19,716 20,179
JPY 180.96 182.46 187.08
GBP 34,280 34,430 35,315
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,400 0
THB 0 762 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 22/04/2025 01:02