Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 5/12/2022

20:05 | 05/12/2022

6,159 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Giá trần G7 áp đặt lên dầu Nga bắt đầu có hiệu lực; OPEC+ duy trì hạn chế sản lượng dù dầu Nga bị áp giá trần; Nga đang xem xét cơ chế cấm buôn bán dầu mỏ… là những tin tức nổi bật về thị trường năng lượng trong nước và quốc tế ngày 5/12/2022.
Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 5/12/2022
Nga đã phải chi ít nhất 16,2 tỷ USD để mở rộng đội tàu chở dầu. Ảnh minh họa: Splash247

Giá trần G7 áp đặt lên dầu Nga bắt đầu có hiệu lực

Giá trần đối với dầu thô vận chuyển bằng đường biển của Nga mà các quốc gia G7 đã thống nhất có hiệu lực từ hôm nay (5/12), trong bối cảnh phương Tây muốn cắt giảm thu nhập của Điện Kremlin từ nhiên liệu hóa thạch.

Thỏa thuận cho phép dầu Nga được vận chuyển đến các nước thứ ba bằng tàu chở dầu của G7 và EU, với sự hỗ trợ của các công ty bảo hiểm và tổ chức tín dụng, chỉ khi mặt hàng này có mức giá thấp hơn hoặc bằng 60 đô la/thùng.

Bộ trưởng Tài chính Mỹ, Janet Yellen, cho biết việc giới hạn giá sẽ "ngay lập tức cắt giảm nguồn thu nhập quan trọng nhất của Nga". Nhưng những người chỉ trích, bao gồm cả Ukraine, nói rằng mức trần này là vô nghĩa vì nó cao hơn giá dầu hiện tại của Nga là khoảng 52 đô la/thùng.

OPEC+ duy trì hạn chế sản lượng dù dầu Nga bị áp giá trần

Liên minh OPEC+, gồm các thành viên của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh do Nga dẫn đầu, đã đồng ý duy trì việc cắt giảm sản lượng 2 triệu thùng/ngày bắt đầu từ tháng 11/2022 đến cuối năm 2023 như đã thỏa thuận ban đầu vào tháng 10. Quyết định này cho phép OPEC+ có thời gian đánh giá tác động thị trường của mức trần giá dầu Nga 60 đô la Mỹ/thùng.

Một số thành viên OPEC+ trước đây đã xem xét khả năng tăng sản lượng để lấp khoảng trống có thể xảy ra đối với sản lượng dầu của Nga sau khi lệnh cấm vận dầu Nga bằng đường biển của EU có hiệu lực vào ngày 5/12. Nhưng họ cũng thận trọng vì lo ngại nếu bơm thêm dầu, giá dầu có thể xuống thấp hơn sau khi đã giảm 13% trong tháng qua.

Giá dầu đã giảm kể từ tháng 10 do tăng trưởng chậm hơn của Trung Quốc và toàn cầu cũng như lãi suất cao hơn, khiến thị trường đồn đoán OPEC+ có thể cắt giảm sản lượng một lần nữa.

Nga đang xem xét cơ chế cấm buôn bán dầu mỏ

Về phía Nga, ngày 4/12, Phó Thủ tướng Alexander Novak tuyên bố, nước này sẽ không xuất khẩu dầu mỏ dưới mức giá trần, ngay cả khi nước này phải cắt giảm sản lượng.

Phát biểu trên kênh truyền hình Rossiya-24, Phó Thủ tướng Novak nhấn mạnh: "Chúng tôi sẽ bán dầu thô và các sản phẩm dầu cho các quốc gia mà sẽ làm việc với chúng tôi theo các điều kiện thị trường, ngay cả khi chúng tôi phải cắt giảm sản lượng một chút".

Ông tái khẳng định quan điểm của Nga không thay đổi khi cho rằng, việc áp giá trần đối với dầu mỏ của Nga là biện pháp không hiệu quả, mang tính phi thị trường, can thiệp vào thị trường và đi ngược lại tất cả các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hiện Chính phủ Nga đang xem xét cơ chế cấm buôn bán dầu mỏ trong điều kiện bị áp giá trần.

Hungary tuyên bố được miễn trừ khỏi quy định áp trần giá dầu

“Trong các cuộc đàm phán về giá trần với dầu nhập khẩu Nga, chúng tôi đã đấu tranh hết mình vì lợi ích của Hungary và cuối cùng chúng tôi đã thành công: Hungary được miễn trừ khỏi quy định áp trần giá dầu. Một lần nữa, chúng tôi đã thành công trong việc bảo vệ an ninh nguồn cung cấp năng lượng của đất nước chúng tôi”, Ngoại trưởng Hungary Peter Szijjarto viết trên trang Facebook chính thức ngày 4/12.

Nhận định về sáng kiến cứng rắn này từ phía EU, ông Szijjarto cho rằng "đã đến lúc Brussels nhận ra rằng các biện pháp như vậy làm tổn thương nền kinh tế châu Âu nhiều nhất".

Theo Ngoại trưởng Hungary, thay vì áp giá trần, sản lượng năng lượng nên được tăng lên để từ đó dẫn tới giảm giá toàn cầu.

Nhật Bản áp trần giá dầu Nga, có một loại trừ

Chính phủ Nhật Bản ra thông cáo cho biết, từ ngày 5/12, nước này bắt đầu áp giá trần đối với dầu thô của Nga, song sẽ loại trừ dầu thô từ nhà máy Sakhalin-2.

Việc loại trừ dầu thô từ dự án Sakhalin-2 ở vùng Viễn Đông của Nga, mà các nhà khai thác năng lượng Nhật Bản nắm giữ cổ phần sau khi Shell rời khỏi, đã được quyết định "phù hợp với an ninh năng lượng của Nhật Bản".

Theo thông cáo, các biện pháp tiếp theo đối với các sản phẩm dầu mỏ của Nga, dự kiến bắt đầu vào ngày 5/2/2023, sẽ được công bố sau.

Nga lập đội 103 tàu chở dầu để lách lệnh trừng phạt

Tờ Financial Times đưa tin rằng Nga đã âm thầm tập hợp một đội 103 tàu lâu năm để tránh các lệnh trừng phạt dầu mỏ của phương Tây. Công ty tư vấn năng lượng Rystad cho biết, Nga đã nắm quyền kiểm soát số tàu chở dầu này kể từ đầu năm 2022 bằng cách mua một số tàu và sử dụng lại một số tàu từng vận chuyển dầu đến, đi từ Iran hoặc Venezuela.

Hồi tháng 10, Giám đốc Ngân hàng VTB, Andrey Kostin, cho biết rằng Nga đã phải chi ít nhất 16,2 tỷ USD để mở rộng đội tàu chở dầu. Các nhà phân tích phương Tây giải thích tuyên bố này có nghĩa là Nga đang đầu tư vào các tàu chở dầu thô rất lớn (VLCC), tàu chở dầu Suezmax và tàu chở dầu Aframax. Mỗi tàu VLCC có thể chứa tới 2 triệu thùng dầu thô, tàu chở dầu Suezmax có thể chở tới 1 triệu thùng, còn tàu chở dầu Aframax chứa tới 700.000 thùng.

Theo Financial Times, các nhà quan sát quốc tế đã nhận xét rằng Nga có thể sẽ sử dụng đội tàu trên để bán khối lượng năng lượng ngày càng tăng cho các quốc gia như Ấn Độ, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ vốn không chịu lệnh trừng phạt của EU hoặc Mỹ.

Ai Cập phát hiện một mỏ khí đốt

Ngày 4/12, Tập đoàn dầu khí Chevron của Mỹ thông báo phát hiện một mỏ khí đốt mới được đặt tên là 'Narges-1X', ở khu vực ngoài khơi Narges gần thành phố Al-Arish, thuộc tỉnh Bắc Sinai của Ai Cập.

Mỏ khí đốt nằm ở ngoài khơi Narges có trữ lượng khoảng 3,5 nghìn tỷ feet khối (tcf), nằm trong khu vực khai thác do Chevron kiểm soát 45%, tập đoàn năng lượng Eni của Italy nắm 45% và công ty nhà nước Tharwa của Ai Cập giữ 10% còn lại. Giếng này đang được khoan bởi tàu khoan Stena Forth.

“Narges-1X” đã phát hiện khí đốt ở độ sâu mục tiêu ban đầu là 3.980 m. Phát hiện này là một tin vui lớn đối với Ai Cập trong bối cảnh quốc gia Bắc Phi này đã chứng kiến sự sụt giảm tổng sản lượng khí đốt tự nhiên từ mức cao nhất là 7,2 tỷ foot khối mỗi ngày (1 foot khối = 0,0283 m3) vào tháng 9/2021 xuống còn 6,5 tỷ foot khối mỗi ngày trong quý III năm nay.

Thủ tướng Australia loại bỏ khả năng phát triển điện hạt nhân

ngày 5/12, Thủ tướng Australia Anthony Albanese cho biết, ông không thay đổi quan điểm về việc phát triển điện hạt nhân vì nhiều lý do, trong đó lý do lớn nhất đó là rác thải hạt nhân. Bộ trưởng Môi trường Australia cũng cho rằng việc phát triển điện hạt nhân không có giá trị kinh tế...

Trước đó, Thủ hiến bang Nam Australia Peter Malinauskas kêu gọi Australia nên khởi động cuộc tranh luận về việc phát triển điện hạt nhân vì đây là dạng năng lượng không thải ra khí carbon. Ông Malinauskas cho rằng, Australia cần cởi mở về việc này và tin tưởng vào công nghệ để ủng hộ việc phát triển điện hạt nhân để phục vụ mục đích dân sự.

Trên thực tế, Australia đã có kế hoạch xây dựng khu vực chứa rác thải hạt nhân ở gần Kimba, một vùng xa xôi, nằm trong lục địa Australia, thuộc bang Nam Australia. Tuy nhiên, kế hoạch này đang bị người dân phản đối mạnh mẽ và không nhận được sự ủng hộ của đảng đối lập. Hiện tại kế hoạch này vẫn đang bị đình trệ và đang bị kiện tụng tại tòa án Australia.

Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 3/12/2022Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 3/12/2022
Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 4/12/2022Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 4/12/2022

T.H (t/h)

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 122,000 ▲6000K 124,000 ▲6000K
AVPL/SJC HCM 122,000 ▲6000K 124,000 ▲6000K
AVPL/SJC ĐN 122,000 ▲6000K 124,000 ▲6000K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,700 ▲370K 11,810 ▲200K
Nguyên liệu 999 - HN 11,690 ▲370K 11,800 ▲200K
Cập nhật: 22/04/2025 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
TPHCM - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Hà Nội - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Hà Nội - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Đà Nẵng - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Đà Nẵng - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Miền Tây - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Miền Tây - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - SJC 122.000 ▲6000K 124.000 ▲6000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 117.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 117.000 ▲3500K 120.000 ▲3100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 117.000 ▲3500K 119.500 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 116.880 ▲3500K 119.380 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 116.140 ▲3470K 118.640 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 115.910 ▲3470K 118.410 ▲3470K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 82.280 ▲2630K 89.780 ▲2630K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 62.560 ▲2050K 70.060 ▲2050K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 42.360 ▲1450K 49.860 ▲1450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 107.060 ▲3200K 109.560 ▲3200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 65.550 ▲2140K 73.050 ▲2140K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 70.330 ▲2280K 77.830 ▲2280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 73.910 ▲2380K 81.410 ▲2380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 37.460 ▲1310K 44.960 ▲1310K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 32.090 ▲1160K 39.590 ▲1160K
Cập nhật: 22/04/2025 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,520 ▲300K 12,040 ▲250K
Trang sức 99.9 11,510 ▲300K 12,030 ▲250K
NL 99.99 11,520 ▲300K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,520 ▲300K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,750 ▲300K 12,050 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,750 ▲300K 12,050 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,750 ▲300K 12,050 ▲250K
Miếng SJC Thái Bình 12,200 ▲600K 12,400 ▲600K
Miếng SJC Nghệ An 12,200 ▲600K 12,400 ▲600K
Miếng SJC Hà Nội 12,200 ▲600K 12,400 ▲600K
Cập nhật: 22/04/2025 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16099 16366 16947
CAD 18238 18514 19137
CHF 31368 31747 32401
CNY 0 3358 3600
EUR 29217 29487 30523
GBP 33910 34300 35247
HKD 0 3218 3421
JPY 178 182 188
KRW 0 0 18
NZD 0 15287 15875
SGD 19325 19605 20136
THB 697 760 814
USD (1,2) 25714 0 0
USD (5,10,20) 25753 0 0
USD (50,100) 25781 25815 26120
Cập nhật: 22/04/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 34,252 34,345 35,253
HKD 3,285 3,295 3,395
CHF 31,529 31,627 32,513
JPY 181.03 181.35 189.44
THB 745.19 754.4 807.64
AUD 16,415 16,474 16,915
CAD 18,517 18,576 19,078
SGD 19,518 19,579 20,198
SEK - 2,662 2,758
LAK - 0.91 1.28
DKK - 3,928 4,064
NOK - 2,451 2,539
CNY - 3,509 3,604
RUB - - -
NZD 15,245 15,386 15,834
KRW 16.9 - 18.94
EUR 29,370 29,393 30,645
TWD 721.13 - 873.02
MYR 5,533.92 - 6,241.2
SAR - 6,798.78 7,156.33
KWD - 82,613 87,857
XAU - - -
Cập nhật: 22/04/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,760 26,100
EUR 29,263 29,381 30,473
GBP 34,115 34,252 35,226
HKD 3,277 3,290 3,397
CHF 31,400 31,526 32,443
JPY 180.36 181.08 188.70
AUD 16,321 16,387 16,917
SGD 19,511 19,589 20,123
THB 761 764 797
CAD 18,446 18,520 19,038
NZD 15,328 15,839
KRW 17.43 19.22
Cập nhật: 22/04/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25790 25790 26120
AUD 16279 16379 16944
CAD 18424 18524 19078
CHF 31638 31668 32546
CNY 0 3517.5 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29405 29505 30378
GBP 34222 34272 35374
HKD 0 3330 0
JPY 181.92 182.42 188.97
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15395 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19490 19620 20341
THB 0 726.8 0
TWD 0 790 0
XAU 12200000 12200000 12400000
XBJ 11700000 11700000 12400000
Cập nhật: 22/04/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,120
USD20 25,780 25,830 26,120
USD1 25,780 25,830 26,120
AUD 16,347 16,497 17,568
EUR 29,545 29,695 30,871
CAD 18,377 18,477 19,796
SGD 19,562 19,712 20,185
JPY 181.83 183.33 188.02
GBP 34,311 34,461 35,248
XAU 12,198,000 0 12,402,000
CNY 0 3,398 0
THB 0 762 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 22/04/2025 20:00