Quyết định cắt giảm của OPEC+ sẽ đẩy giá dầu tăng tới mức nào?

06:27 | 05/04/2023

6,357 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Các nhà phân tích và thương nhân cho biết quyết định bất ngờ cắt giảm thêm đối với các mục tiêu khai thác dầu của nhóm OPEC+ có thể đẩy giá dầu lên tới 100 USD/thùng, tạo tiền đề cho một cuộc đụng độ khác với phương Tây, khu vực đang vật lộn với lãi suất cao.
Quyết định cắt giảm của OPEC+ sẽ đẩy giá dầu tăng tới mức nào?

Động thái này thể hiện sự thống nhất của Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh (OPEC+), bất chấp áp lực từ phía Washington đối với các đồng minh vùng Vịnh nhằm làm suy yếu mối quan hệ của nhóm này với Moscow, đồng thời làm suy yếu các nỗ lực của phương Tây nhằm hạn chế doanh thu từ dầu mỏ của Nga.

Giá dầu đã tăng hơn 6% vào thứ Hai (3/4) sau khi Nga và OPEC+ tuyên bố tiếp tục cắt giảm khoảng 1,16 triệu thùng mỗi ngày kể từ tháng 5 cho đến hết năm nay.

Các cam kết trên sẽ nâng tổng khối lượng cắt giảm của nhóm OPEC+ kể từ tháng 11/2022 lên 3,66 triệu thùng/ngày, theo tính toán của Reuters, tương đương 3,7% nhu cầu toàn cầu.

OPEC+ dự kiến sẽ duy trì sản lượng dầu ổn định trong năm nay, sau khi đã cắt giảm 2 triệu thùng/ngày vào tháng 11/2022.

Ả Rập Xê-út cho biết việc cắt giảm sản lượng tự nguyện là một biện pháp phòng ngừa nhằm hỗ trợ sự ổn định của thị trường.

Hôm thứ Hai vừa qua, Phó Thủ tướng Nga Alexander Novak cho biết sự can thiệp vào thị trường là một trong những lý do đằng sau dẫn đến quyết định cắt giảm.

“Đợt cắt giảm mới xác nhận rằng nhóm OPEC+ vẫn còn đông đủ và Nga vẫn là một phần không thể thiếu và quan trọng của nhóm”, nhà phân tích Bjarne Schieldrop của SEB cho biết.

Rystad Energy tin rằng việc cắt giảm sẽ góp phần thắt chặt thị trường dầu mỏ và nâng giá lên trên 100 USD/thùng trong thời gian còn lại của năm, điều này có thể đưa dầu Brent đạt tới ngưỡng 110 USD vào mùa hè này.

UBS cũng dự đoán giá dầu Brent sẽ đạt mức 100 USD/thùng vào tháng 6 tới, trong khi Goldman Sachs nâng dự báo tháng 12 thêm 5 USD, lên 95 USD/thùng.

Goldman Sachs cho biết các đợt xả kho Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược (RSP) tại Mỹ và Pháp, do các cuộc đình công đang diễn ra, cũng như việc Washington từ chối bơm dầu trở lại kho RSP trong năm tài chính 2023, có thể đã thúc đẩy hành động của OPEC+.

Giá dầu tăng có thể sẽ khiến doanh thu của Moscow tăng để tài trợ cho cuộc chiến tốn kém ở Ukraine, điều làm mối quan hệ giữa Ả Rập Xê-út và Mỹ ngày càng xa cách, ông Schieldrop cho biết.

“Chính quyền Mỹ cũng có thể lập luận rằng giá dầu cao hơn sẽ cản trở nỗ lực dập tắt ngọn lửa lạm phát ở nước này”, ông nói thêm.

Một lãnh đạo tại nhà máy lọc dầu Hàn Quốc cho biết quyết định cắt giảm là “tin xấu” đối với những người mua dầu và OPEC đang tìm cách “bảo vệ lợi nhuận của họ” trước những lo ngại về nền kinh tế toàn cầu đang suy thoái.

Việc cắt giảm nguồn cung sẽ đẩy giá dầu lên cao khi các nền kinh tế suy yếu làm giảm nhu cầu và giá nhiên liệu, làm giảm lợi nhuận của các nhà máy lọc dầu, lãnh đạo nhà máy lọc dầu của Hàn Quốc và một thương nhân Trung Quốc cho biết. Cả hai đều từ chối tiết lộ danh tính.

Ông Takayuki Honma, nhà kinh tế trưởng tại công ty Sumitomo Corporation Global Research, cho biết nguồn cung của OPEC+ thắt chặt hơn cũng sẽ tác động tiêu cực đến Nhật Bản, vì nó có thể thúc đẩy lạm phát và làm suy yếu nền kinh tế nước này.

“Các nước khai thác rõ ràng muốn thấy giá dầu tăng lên 90-100 USD/thùng, nhưng giá dầu cao hơn cũng đồng nghĩa với nguy cơ suy thoái kinh tế cao hơn và khiến nhu cầu chậm lại”, ông cho biết thêm.

Tuy nhiên, lượng mua hàng của Trung Quốc, nhà nhập khẩu dầu thô hàng đầu thế giới, dự kiến sẽ đạt mức cao kỷ lục vào năm 2023 khi nước này phục hồi sau đại dịch Covid-19, trong khi mức tiêu thụ của Ấn Độ, nhà nhập khẩu lớn thứ 3 thế giới, vẫn tăng mạnh, các thương nhân cho biết.

Giá tăng và nguồn cung dầu thô từ Trung Đông giảm có thể thúc đẩy Trung Quốc và Ấn Độ mua thêm dầu của Nga, làm tăng doanh thu của Moscow, một lãnh đạo giấu tên tại nhà máy lọc dầu của Ấn Độ cho biết.

Giá dầu Brent tăng có thể đẩy Urals và các sản phẩm dầu mỏ khác của Nga lên mức giá cao hơn mức trần do Nhóm G7 đặt ra nhằm hạn chế doanh thu từ dầu mỏ của Moscow.

Nguồn cung thay thế

Các nhà máy lọc dầu ở Nhật Bản và Hàn Quốc cho biết họ không có kế hoạch mua dầu của Nga do những lo ngại về địa chính trị và có thể tìm kiếm các nguồn cung thay thế từ châu Phi và châu Mỹ Latinh.

“Nhật Bản có thể tìm cách nhận thêm nguồn cung từ Mỹ, nhưng việc vận chuyển dầu của Mỹ qua Kênh đào Panama rất tốn kém”, ông Honma của Tập đoàn Sumitomo cho biết.

Các nhà giao dịch cũng đang chờ phản hồi từ phía Mỹ, quốc gia cho rằng quyết định của OPEC+ là không đúng lúc.

“Về bản chất, mục đích của việc cắt giảm sản lượng lớn và bất ngờ này chủ yếu là để giành lại quyền định giá trên thị trường”, thương nhân Trung Quốc cho biết.

Giá dầu tăng bất ngờ do OPEC+ có tuyên bố gây sốc về sản lượngGiá dầu tăng bất ngờ do OPEC+ có tuyên bố gây sốc về sản lượng
Vì sao OPEC+ và Nga đồng loạt cắt giảm sản lượng dầu mỏ?Vì sao OPEC+ và Nga đồng loạt cắt giảm sản lượng dầu mỏ?
OPEC+ cắt giảm sản lượng tác động đến các công ty lọc dầu và nguồn cung cho châu ÁOPEC+ cắt giảm sản lượng tác động đến các công ty lọc dầu và nguồn cung cho châu Á

Nh.Thạch

AFP

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
AVPL/SJC HCM 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
AVPL/SJC ĐN 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,330 ▲400K 11,610 ▲350K
Nguyên liệu 999 - HN 11,320 ▲400K 11,600 ▲350K
Cập nhật: 21/04/2025 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
TPHCM - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Hà Nội - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Hà Nội - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Đà Nẵng - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Đà Nẵng - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Miền Tây - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Miền Tây - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.500 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.500 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.500 ▲4000K 116.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.380 ▲3990K 115.880 ▲3990K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.670 ▲3970K 115.170 ▲3970K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.440 ▲3960K 114.940 ▲3960K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.650 ▲3000K 87.150 ▲3000K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.510 ▲2340K 68.010 ▲2340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.910 ▲1670K 48.410 ▲1670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.860 ▲3670K 106.360 ▲3670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.410 ▲2440K 70.910 ▲2440K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.050 ▲2600K 75.550 ▲2600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.530 ▲2720K 79.030 ▲2720K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.150 ▲1500K 43.650 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.930 ▲1320K 38.430 ▲1320K
Cập nhật: 21/04/2025 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,220 ▲400K 11,790 ▲450K
Trang sức 99.9 11,210 ▲400K 11,780 ▲450K
NL 99.99 11,220 ▲400K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,220 ▲400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 ▲400K 11,800 ▲450K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 ▲400K 11,800 ▲450K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 ▲400K 11,800 ▲450K
Miếng SJC Thái Bình 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Miếng SJC Nghệ An 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Miếng SJC Hà Nội 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Cập nhật: 21/04/2025 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16114 16381 16967
CAD 18223 18499 19124
CHF 31491 31871 32527
CNY 0 3358 3600
EUR 29270 29540 30573
GBP 33889 34278 35229
HKD 0 3203 3405
JPY 177 181 187
KRW 0 0 18
NZD 0 15258 15851
SGD 19331 19611 20141
THB 697 760 814
USD (1,2) 25615 0 0
USD (5,10,20) 25653 0 0
USD (50,100) 25681 25715 26060
Cập nhật: 21/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,700 25,700 26,060
USD(1-2-5) 24,672 - -
USD(10-20) 24,672 - -
GBP 34,226 34,318 35,228
HKD 3,275 3,285 3,385
CHF 31,600 31,698 32,587
JPY 180.2 180.52 188.59
THB 745.03 754.23 807.01
AUD 16,392 16,451 16,902
CAD 18,498 18,557 19,056
SGD 19,531 19,592 20,212
SEK - 2,674 2,768
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,933 4,069
NOK - 2,445 2,531
CNY - 3,513 3,609
RUB - - -
NZD 15,214 15,356 15,808
KRW 16.96 - 19
EUR 29,403 29,427 30,686
TWD 720.96 - 872.84
MYR 5,536.18 - 6,245.4
SAR - 6,781.86 7,138.75
KWD - 82,281 87,521
XAU - - -
Cập nhật: 21/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,700 25,720 26,060
EUR 29,244 29,361 30,452
GBP 34,008 34,145 35,117
HKD 3,270 3,283 3,390
CHF 31,496 31,622 32,544
JPY 179.63 180.35 187.93
AUD 16,241 16,306 16,835
SGD 19,514 19,592 20,127
THB 760 763 797
CAD 18,425 18,499 19,017
NZD 15,221 15,730
KRW 17.46 19.26
Cập nhật: 21/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25700 25700 26060
AUD 16273 16373 16935
CAD 18402 18502 19060
CHF 31717 31747 32621
CNY 0 3515.9 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29423 29523 30401
GBP 34169 34219 35340
HKD 0 3330 0
JPY 180.91 181.41 187.94
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15344 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19477 19607 20339
THB 0 726.6 0
TWD 0 790 0
XAU 11600000 11600000 11800000
XBJ 11200000 11200000 11800000
Cập nhật: 21/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,695 25,745 26,120
USD20 25,695 25,745 26,120
USD1 25,695 25,745 26,120
AUD 16,331 16,481 17,543
EUR 29,592 29,742 30,915
CAD 18,350 18,450 19,770
SGD 19,566 19,716 20,179
JPY 180.96 182.46 187.08
GBP 34,280 34,430 35,315
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,400 0
THB 0 762 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 21/04/2025 21:00