Thái Lan cạn vàng vì đập thủy điện của Trung Quốc, Lào

08:19 | 28/05/2021

1,090 lượt xem
|
Theo các chuyên gia, nguồn thức ăn, sinh kế và môi trường sống của hàng triệu người dân hai bờ sông Mekong đang rơi vào tình trạng nguy hiểm khi các doanh nghiệp đổ xô xây đập thủy điện.

Dưới cái nắng chói chang, hai người phụ nữ lớn tuổi Thái Lan cặm cụi mò vàng dọc bờ sông Mekong. Họ cẩn thận sàng lọc bùn đất ở từng khe đá bụi rong và cả những ký ức của mình về thời kỳ hạnh phúc bên cạnh một dòng sông đang bị thay đổi vĩnh viễn bởi các đập thủy điện ở thượng nguồn.

Khi chảy tới chỗ họ ở Loei tại biên giới Thái Lan - Lào, dòng sông Mekong đã gồng mình chịu tới hàng chục con đập. 11 trong số đó là của Trung Quốc và một của Lào. Người dân địa phương và các chuyên gia cho biết những con đập này đã hủy hoại môi trường sống của cá và thay đổi dòng chảy tự nhiên theo mùa của dòng sông, thậm chí thay đổi cả màu sắc của nó.

Thái Lan cạn vàng vì đập thủy điện của Trung Quốc, Lào - 1
Người dân đãi vàng ở Thái Lan than hết vàng (Ảnh: SCMP).

Rodjana Thepwong, một người phụ nữ 64 tuổi với sức vóc rắn rỏi và nụ cười dễ mến cho hay, những người thợ đãi vàng thường lội ra giữa dòng sông vào mùa khô để lấy bùn đãi.

"Lớp bùn đá bên dưới từng chứa đầy vàng. Có lần tôi tìm được những mẩu vàng to bằng hạt me. Nhưng từ khi đập thủy điện được xây dựng hàng loạt ở phía thượng nguồn, nước sông dâng lên và hạ xuống một cách ngẫu nhiên, khiến hệ sinh thái mất cân bằng. Chúng tôi phải di chuyển về phía gần bờ, nơi có rất ít vàng", bà Rodjana vừa nói vừa đi tới bờ sông dùng cuốc để loại bỏ bùn đá.

Nếu gặp may mắn, bà Rodjana và người bạn thời thơ ấu của mình là Hieng Chantarasee, 70 tuổi, có thể kiếm được 500 baht (15 USD) từ những mẩu vàng nhỏ mà họ đãi được.

Thái Lan cạn vàng vì đập thủy điện của Trung Quốc, Lào - 2
Vàng được đãi từ sông Mekong giờ chỉ là những mẩu rất nhỏ (Ảnh: SCMP).

Họ chỉ là hai trong số 60 triệu người đang sống phụ thuộc vào sông Mekong, dòng sông chảy từ Trung Quốc, qua Myanmar, Lào, Thái Lan và Campuchia trước khi đổ vào khu vực Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.

Theo các chuyên gia, nguồn thức ăn, sinh kế và môi trường sống của hàng triệu người này đang rơi vào tình trạng nguy hiểm khi các doanh nghiệp đổ xô xây đập thủy điện.

"Tôi bắt đầu nhận ra mọi thứ đang thay đổi khi cá chết và nước đột ngột dâng cao", bà Hieng nói khi đang ngồi đãi vàng dưới sông. Những thay đổi ấy ngày càng rõ rệt. Càng về phía hạ lưu, nước sông đột nhiên có màu xanh ngọc hồi tháng 2 năm nay, một hiện tượng cho thấy phù sa đang biến mất, giới chuyên gia cho hay. Tất nhiên, biến đổi khí hậu cũng là một phần nguyên nhân khi tạo ra mùa mưa lớn hơn và hạn hán kéo dài hơn.

Tuy nhiên, bà Rodjana và Hieng đều cảm thấy sự hình thành của các con đập chắc chắn là nguyên nhân khiến "sức khỏe" của sông Mekong, nguồn cung thực phẩm và thu nhập cho nhiều thế hệ gia đình sống xung quanh, giảm sút.

"Thật đáng buồn. Nhưng chúng tôi có thể làm gì? Những gì chúng tôi muốn là đừng xây thêm con đập nào nữa", bà Rodjana chia sẻ.

Tuy nhiên, đây rõ ràng là một hy vọng không thể thành hiện thực.

Một con đập mới được dự kiến xây ở phía thượng lưu thuộc Lào, cách nơi họ đãi vàng khoảng 2 km. Con đập mới có tên Sanakham này là dự án đầu tư 2 tỷ USD do công ty con thuộc Datang International Power Generation Company của Trung Quốc phát triển. Việc xây dựng dự kiến bắt đầu từ cuối năm ngoái và kết thúc vào năm 2028, theo Ủy ban sông Mekong.

Điện do Sanakham sản xuất sẽ được xuất khẩu chủ yếu sang Thái Lan. Trong 2 tỷ USD tiền đầu tư, chỉ có khoảng 28 triệu USD, tương đương 1,4%, được dùng để phát triển các biện pháp giảm thiểu tác động tới môi trường và xã hội.

Thái Lan đang dần quay lưng với dự án đập Sanakham trong bối cảnh các cộng đồng dân cư xung quanh sông Mekong vận động tạm dừng phát triển đập và quan chức bắt đầu công khai tranh luận về nhu cầu sử dụng điện do ngành thủy điện tạo ra.

"Sự phát triển của sông Mekong đã đạt đến điểm không thể quay trở lại. Những gì chúng ta có thể làm bây giờ là tập trung vào cách giảm thiểu tác động tới môi trường, việc này có lẽ mất ít nhất 15 năm", theo ông Tosapol Wongwan, trợ lý của Tổng thư ký Văn phòng Tài nguyên nước Quốc gia Thái Lan.

Theo Dân trí

Sợ nợ Trung Quốc Sợ nợ Trung Quốc "ngập đầu", quốc đảo Samoa hoãn dự án cảng 100 triệu USD
Bất chấp Covid-19, hàng Trung Quốc vẫn dồn dập đổ về Việt NamBất chấp Covid-19, hàng Trung Quốc vẫn dồn dập đổ về Việt Nam
Vốn Trung Quốc ồ ạt đổ vào Việt Nam, vượt qua cả vốn đầu tư của Nhật, HànVốn Trung Quốc ồ ạt đổ vào Việt Nam, vượt qua cả vốn đầu tư của Nhật, Hàn
Đầu tư phương Tây vào Việt Nam chỉ bằng 1/3 vốn của Trung QuốcĐầu tư phương Tây vào Việt Nam chỉ bằng 1/3 vốn của Trung Quốc
Các nước châu Phi đồng loạt xin khoanh nợ, Trung Quốc lao đaoCác nước châu Phi đồng loạt xin khoanh nợ, Trung Quốc lao đao

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 124,000 125,000
AVPL/SJC HCM 124,000 125,000
AVPL/SJC ĐN 124,000 125,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,980 11,080
Nguyên liệu 999 - HN 10,970 11,070
Cập nhật: 19/08/2025 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 117,000 ▲200K 119,800
Hà Nội - PNJ 117,000 ▲200K 119,800
Đà Nẵng - PNJ 117,000 ▲200K 119,800
Miền Tây - PNJ 117,000 ▲200K 119,800
Tây Nguyên - PNJ 117,000 ▲200K 119,800
Đông Nam Bộ - PNJ 117,000 ▲200K 119,800
Cập nhật: 19/08/2025 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,470 11,920
Trang sức 99.9 11,460 11,910
NL 99.99 10,863 ▼7K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,863 ▼7K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,680 11,980
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,680 11,980
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,680 11,980
Miếng SJC Thái Bình 12,400 12,500
Miếng SJC Nghệ An 12,400 12,500
Miếng SJC Hà Nội 12,400 12,500
Cập nhật: 19/08/2025 20:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 124 125
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 124 12,502
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 124 12,503
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 117 1,195
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 117 1,196
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,168 1,186
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 112,926 117,426
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 81,909 89,109
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 73,606 80,806
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 65,303 72,503
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 62,101 69,301
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 42,411 49,611
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 124 125
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 124 125
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 124 125
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 124 125
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 124 125
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 124 125
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 124 125
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 124 125
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 124 125
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 124 125
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 124 125
Cập nhật: 19/08/2025 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16545 16813 17395
CAD 18509 18786 19403
CHF 32002 32384 33033
CNY 0 3570 3690
EUR 30102 30375 31403
GBP 34758 35151 36096
HKD 0 3242 3444
JPY 171 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 15274 15868
SGD 19965 20247 20776
THB 725 788 841
USD (1,2) 26049 0 0
USD (5,10,20) 26090 0 0
USD (50,100) 26119 26153 26495
Cập nhật: 19/08/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,120 26,120 26,480
USD(1-2-5) 25,076 - -
USD(10-20) 25,076 - -
EUR 30,226 30,250 31,463
JPY 174.93 175.25 182.61
GBP 35,064 35,159 36,040
AUD 16,777 16,838 17,306
CAD 18,728 18,788 19,325
CHF 32,191 32,291 33,100
SGD 20,098 20,160 20,832
CNY - 3,613 3,711
HKD 3,313 3,323 3,423
KRW 17.47 18.22 19.67
THB 771.88 781.41 835.92
NZD 15,232 15,373 15,819
SEK - 2,703 2,796
DKK - 4,039 4,178
NOK - 2,531 2,618
LAK - 0.93 1.29
MYR 5,818.29 - 6,560.9
TWD 789.54 - 955.09
SAR - 6,891.96 7,253.02
KWD - 83,768 89,054
Cập nhật: 19/08/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,110 26,120 26,460
EUR 30,048 30,169 31,297
GBP 34,865 35,005 35,998
HKD 3,297 3,310 3,416
CHF 31,982 32,110 33,015
JPY 173.99 174.69 182.07
AUD 16,731 16,798 17,339
SGD 20,114 20,195 20,743
THB 787 790 825
CAD 18,699 18,774 19,296
NZD 15,329 15,835
KRW 18.16 19.92
Cập nhật: 19/08/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26135 26135 26495
AUD 16726 16826 17391
CAD 18690 18790 19344
CHF 32257 32287 33161
CNY 0 3629.7 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4110 0
EUR 30391 30491 31264
GBP 35073 35123 36233
HKD 0 3365 0
JPY 174.58 175.58 182.13
KHR 0 6.347 0
KRW 0 18.6 0
LAK 0 1.161 0
MYR 0 6395 0
NOK 0 2570 0
NZD 0 15386 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2740 0
SGD 20127 20257 20985
THB 0 754.2 0
TWD 0 875 0
XAU 12200000 12200000 12600000
XBJ 10600000 10600000 12600000
Cập nhật: 19/08/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,120 26,170 26,420
USD20 26,120 26,170 26,420
USD1 26,120 26,170 26,420
AUD 16,760 16,860 17,980
EUR 30,388 30,388 31,722
CAD 18,638 18,738 20,056
SGD 20,180 20,330 20,803
JPY 175.04 176.54 181.19
GBP 35,128 35,278 36,061
XAU 12,398,000 0 12,502,000
CNY 0 3,510 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 19/08/2025 20:00