Vì sao VNBA kiến nghị nhà mạng giảm cước phí viễn thông cho ngân hàng?

11:00 | 20/08/2021

788 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Liên quan đến vấn đề các nhà băng bức xúc xung quanh giá cước tin nhắn, Diễn đàn Doanh nghiệp đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Quốc Hùng – Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA).

- Thưa ông, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam vừa công văn gửi tới Bộ Thông tin và Truyền thông đề nghị Bộ chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông giảm mức giá cước tin nhắn đối với các dịch vụ ngân hàng. Xin ông cho biết, những nội dung chính trong công văn được Hiệp hội gửi đi lần này?

TS Nguyễn Quốc Hùng- Tổng thư ký Hiệp hội Ngan
TS Nguyễn Quốc Hùng- Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng

Đúng vậy. Đây là lần thứ 4 Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam gửi Bộ Thông tin và Truyền thông đề nghị Bộ chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông giảm mức giá cước tin nhắn đối với các dịch vụ ngân hàng. Nội dung công văn tập trung vào 2 vấn đề chính sau:

Thứ nhất: Đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông thực hiện Nghị quyết số 63/NQ-CP của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư …và thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về việc giảm phí cước tin nhắn đối với các dịch vụ ngân hàng cho các tổ chức tín dụng (TCTD) do bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19.

Thứ hai: Đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông làm việc với các TCTD thông qua Hiệp hội Ngân hàng để giải thích rõ việc tính cước phí tin nhắn đối với khách hàng cá nhân và tổ chức. Đồng thời, cũng đề nghị các doanh nghiệp viễn thông phối hợp với các TCTD và các cơ quan chức năng để ngăn chặn không cho đối tượng lừa đảo gửi tin nhắn thương hiệu của các TCTD qua nhà mạng.

Hiện nay các TCTD đang phản ảnh về việc các nhà mạng thu phí cước tin nhắn dịch vụ ngân hàng với các mức khác nhau mà không giải thích rõ việc tính cước phí như thế nào, chỉ nêu lý do vì dịch vụ ngân hàng mang tính bảo mật. Tuy nhiên, thực tế xuất hiện nhiều tình trạng lừa đảo qua tin nhắn gửi từ nhà mạng song nhà mạng không chịu trách nhiệm, không giải thích rõ tại sao có thể lợi dụng để lừa đảo? Điều này theo tôi đã làm ảnh hưởng đến thương hiệu của các TCTD.

Là Hiệp hội bảo vệ quyền lợi của các hội viên, tôi cho rằng, quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên cần phải làm cho rõ. Trước mắt, chúng tôi gửi văn bản tới cơ quan quản lý sau đó sẽ gửi các cơ quan chức năng để xem xét một cách khách quan. Mặt khác, trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn ra tới 4 đợt, các TCTD đã phải giảm chi phí, lương, thưởng, sẵn sàng hy sinh cả lợi nhuận để thực hiện giảm lãi vay, giảm các loại phí... nhằm hỗ trợ khách hàng, trong khi đó, các nhà mạng vẫn “bình chân như vại” không quan tâm tới đề nghị của các TCTD mặc dù Hiệp hội Ngân hàng đã có công văn gửi Bộ Thông tin và Truyền thông 3 lần. Hy vọng lần thứ 4 này, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ có chỉ đạo quyết liệt nhà mạng thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 63/NQ-CP của Chính phủ…

- Thời gian qua, ngành ngân hàng đã nhiều lần miễn, giảm lãi suất; miễn, giảm phí hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp viễn thông, vượt qua khó khăn do đại dịch COVID-19. Ở chiều ngược lại, ngân hàng cũng là doanh nghiệp và cũng chịu tác động tiêu cực từ đại dịch nhưng đến nay vẫn chưa được nhận những hỗ trợ từ đối tác, đặc biệt từ các doanh nghiệp viễn thông. Quan điểm của ông với vấn đề này như thế nào, thưa ông?

Tôi cho rằng các TCTD là khách hàng lớn của các nhà mạng. Nguồn thu từ các TCTD đối với nhà mạng là rất lớn, đáng nhẽ các nhà mạng cần phải chăm sóc, nuôi dưỡng nguồn thu và phải có chính sách ưu đãi, chia sẻ khó khăn đối với khách hàng của mình, nhất là trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn ra đến lần thứ 4.

Các TCTD đã phải liên tục giảm phí, giảm lãi vay, thực hiện cơ cấu nợ cho khách hàng nhiều lần, trong đó có doanh nghiệp viễn thông. Cùng với đó, dù Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 63/NQ-CP, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã chỉ đạo, đến ngày 9/8/202 Hiệp hội Ngân hàng gửi công văn tới lần thứ 4, nhưng các nhà mạng vẫn chưa hề giảm phí tin nhắn dịch vụ ngân hàng cho các TCTD, điều đó gây bức xúc cho các TCTD.

Thể hiện trách nhiệm trong việc bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của hội viên, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam sẽ kiến nghị đến cùng vấn đề này (kể cả đối với các tổ chức thẻ quốc tế là Mastercard và Visa card, chúng tôi cũng đề nghị giảm phí bởi hầu như chủ thẻ không đi nước ngoài, tiêu dùng thanh toán trong nước nhưng các tổ chức này cũng không giảm phí cho các TCTD phát hành thẻ).

Hơn nữa, chúng tôi cũng sẽ đề nghị các nhà mạng giải thích rõ việc tính cước tin nhắn các loại đối với các TCTD; cũng như đề nghị làm rõ trách nhiệm trong việc lừa đảo qua tin nhắn mà lỗi không phải từ các TCTD, điều này đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thương hiệu của họ.

- Mức giá cước tin nhắn hiện nay ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động ngân hàng, thưa ông?

Cước tin nhắn hiện nay các TCTD phải thanh toán cho nhà mạng là rất lớn. Tính sơ bộ, một TCTD cỡ nhỏ hàng tháng phải trả phí cước cho 15 - 20 triệu tin nhắn/tháng, còn các TCTD tầm trung trở lên là 50 - 80 triệu tin nhắn/tháng. Hiện tại, số lượng các TCTD đang hoạt động tại Việt Nam, bao gồm cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ngoài cũng có đến cả trăm TCTD. Như vậy, số lượng tin nhắn hàng tháng từ các TCTD là rất lớn.

Mức giá cước các nhà mạng đang thu đối với tin nhắn dịch vụ ngân hàng là: đối với doanh nghiệp, nhà mạng Mobifone và VinaPhone thu 820 đồng/1tin nhắn, Viettel thu 785 đồng/1 tin nhắn; đối với cá nhân, Viettel thu 100 - 300 đồng/tin nhắn, VinaPhone thu 99 - 350 đồng/tin nhắn, Mobifone thu 200-350 đồng/tin nhắn. Có thể thấy, hàng tháng các TCTD đang phải thanh toán cho các nhà mạng số tiền không hề nhỏ.

Trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn ra trên diện rộng, ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế, xã hội nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, ngành ngân hàng đã kêu gọi các TCTD tiết giảm chi phí, giảm lương giảm thưởng để giảm lãi, giảm phí, cơ cấu nợ tạm chưa thu lãi... cho khách hàng. Như vậy, với số lượng TCTD, số lượng dịch vụ tin nhắn và mức giá như trên, thì chi phí cho dịch vụ tin nhắn đang là quá lớn.

Với cách tính của các nhà mạng như hiện nay, khi xã hội đang dần số hóa, từ Chính phủ điện tử, ngân hàng số... liệu nhà mạng có được hưởng lợi từ chính sách này hay không?. Vậy cần phải làm rõ cách tính phí của các nhà mạng so với chi phí họ đã bỏ ra.

- Như vậy có thể nói giảm phí tin nhắn nhà mạng cho ngân hàng sẽ giúp ngành ngân hàng có thêm nguồn lực và động lực để chung tay chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19? Đối với các doanh nghiệp viễn thông, theo ông cần có giải pháp nào để giảm giá dịch vụ tin nhắn cho các TCTD?

Hiện nay ngành ngân hàng đang phải căng mình chống dịch, đồng thời phải hỗ trợ các doanh nghiệp, cá nhân ảnh hưởng bởi dịch... Có thể trước mắt trên bảng cân đối kế toán thấy lãi nhiều nhưng cuối năm chắc chắn sẽ rất khó khăn, nguy cơ tiềm ẩn nợ xấu rất cao, khi đó lợi nhuận của các TCTD sẽ giảm mạnh do phải trích dự phòng rủi ro, loại dự thu các khoản cơ cấu nợ... Do vậy, các TCTD rất cần được Chính phủ, các ngành, các cấp chia sẻ hỗ trợ.

Còn đối các doanh nghiệp viễn thông, đây đều là các doanh nghiệp lớn, tỷ suất lợi nhuận còn cao hơn ngân hàng, vì vậy theo tôi cũng nên có sự chia sẻ với cộng đồng và xã hội ở mức tương xứng. Việc tính phí của các nhà mạng cũng vậy, cần được thông tin minh bạch và phù hợp với chi phí bỏ ra. Sắp tới, chúng tôi sẽ làm việc với các nhà mạng để làm rõ căn cứ việc tính giá cước tin nhắn đối với các TCTD.

Xin cảm ơn Ông!

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Hà Nội: Giải ngân hơn 10 tỷ đồng trả lương ngừng việc cho 2.279 lao độngHà Nội: Giải ngân hơn 10 tỷ đồng trả lương ngừng việc cho 2.279 lao động
Hạ lãi vay, nên hay không: Ngân hàng có thể giảm lãi 3% - 5%?Hạ lãi vay, nên hay không: Ngân hàng có thể giảm lãi 3% - 5%?
Đã giải ngân hơn 163 tỉ đồng trả lương ngừng việcĐã giải ngân hơn 163 tỉ đồng trả lương ngừng việc

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
AVPL/SJC HCM 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
AVPL/SJC ĐN 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,330 ▲400K 11,610 ▲350K
Nguyên liệu 999 - HN 11,320 ▲400K 11,600 ▲350K
Cập nhật: 21/04/2025 16:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
TPHCM - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Hà Nội - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Hà Nội - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Đà Nẵng - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Đà Nẵng - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Miền Tây - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Miền Tây - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.500 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.500 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.500 ▲4000K 116.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.380 ▲3990K 115.880 ▲3990K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.670 ▲3970K 115.170 ▲3970K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.440 ▲3960K 114.940 ▲3960K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.650 ▲3000K 87.150 ▲3000K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.510 ▲2340K 68.010 ▲2340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.910 ▲1670K 48.410 ▲1670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.860 ▲3670K 106.360 ▲3670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.410 ▲2440K 70.910 ▲2440K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.050 ▲2600K 75.550 ▲2600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.530 ▲2720K 79.030 ▲2720K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.150 ▲1500K 43.650 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.930 ▲1320K 38.430 ▲1320K
Cập nhật: 21/04/2025 16:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,220 ▲400K 11,790 ▲450K
Trang sức 99.9 11,210 ▲400K 11,780 ▲450K
NL 99.99 11,220 ▲400K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,220 ▲400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 ▲400K 11,800 ▲450K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 ▲400K 11,800 ▲450K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 ▲400K 11,800 ▲450K
Miếng SJC Thái Bình 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Miếng SJC Nghệ An 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Miếng SJC Hà Nội 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Cập nhật: 21/04/2025 16:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16114 16381 16965
CAD 18236 18512 19134
CHF 31506 31886 32527
CNY 0 3358 3600
EUR 29307 29577 30607
GBP 33911 34300 35247
HKD 0 3203 3405
JPY 177 181 187
KRW 0 0 18
NZD 0 15257 15851
SGD 19343 19623 20140
THB 697 760 814
USD (1,2) 25613 0 0
USD (5,10,20) 25651 0 0
USD (50,100) 25679 25713 26055
Cập nhật: 21/04/2025 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,700 25,700 26,060
USD(1-2-5) 24,672 - -
USD(10-20) 24,672 - -
GBP 34,226 34,318 35,228
HKD 3,275 3,285 3,385
CHF 31,600 31,698 32,587
JPY 180.2 180.52 188.59
THB 745.03 754.23 807.01
AUD 16,392 16,451 16,902
CAD 18,498 18,557 19,056
SGD 19,531 19,592 20,212
SEK - 2,674 2,768
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,933 4,069
NOK - 2,445 2,531
CNY - 3,513 3,609
RUB - - -
NZD 15,214 15,356 15,808
KRW 16.96 - 19
EUR 29,403 29,427 30,686
TWD 720.96 - 872.84
MYR 5,536.18 - 6,245.4
SAR - 6,781.86 7,138.75
KWD - 82,281 87,521
XAU - - -
Cập nhật: 21/04/2025 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,700 25,720 26,060
EUR 29,244 29,361 30,452
GBP 34,008 34,145 35,117
HKD 3,270 3,283 3,390
CHF 31,496 31,622 32,544
JPY 179.63 180.35 187.93
AUD 16,241 16,306 16,835
SGD 19,514 19,592 20,127
THB 760 763 797
CAD 18,425 18,499 19,017
NZD 15,221 15,730
KRW 17.46 19.26
Cập nhật: 21/04/2025 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25697 25697 26057
AUD 16289 16389 16962
CAD 18422 18522 19073
CHF 31753 31783 32673
CNY 0 3517.2 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29487 29587 30465
GBP 34217 34267 35387
HKD 0 3330 0
JPY 181.11 181.61 188.14
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2470 0
NZD 0 15368 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2690 0
SGD 19505 19635 20357
THB 0 726.8 0
TWD 0 790 0
XAU 11900000 11900000 12500000
XBJ 10200000 10200000 12500000
Cập nhật: 21/04/2025 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,710 25,760 26,120
USD20 25,710 25,760 26,120
USD1 25,710 25,760 26,120
AUD 16,325 16,475 17,551
EUR 29,586 29,736 30,915
CAD 18,352 18,452 19,776
SGD 19,574 19,724 20,191
JPY 180.95 182.45 187.11
GBP 34,284 34,434 35,315
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 762 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 21/04/2025 16:45