Từ khi thành lập cho đến khi đổi tên thành Ban Công nghệ Thông tin (1996-2005), Phòng Tin học cùng với các phòng chức năng/chuyên môn khác của Viện Dầu khí Việt Nam đã có sự đóng góp rất lớn vào sự nghiệp nghiên cứu khoa học (NCKH), phục vụ sản xuất của Viện Dầu khí/Tổng công ty Dầu khí (VPI/Petrovietnam).
Được thành lập từ năm 1996 với nhân sự là các kỹ sư của các phòng: Kế hoạch - Khoa học; Địa chất; Địa Vật lý; Khoan (các anh PS. Tài, PK. Trung, PV. Tiềm, NV. Phòng, PT. Giang, NT. Tùng, PT. Hải, DH. Sơn; sau này bổ sung anh NA. Đức, NX. Nam, NV. Cường, chị LK. Thư, chị NM. Hạnh, anh TN. Dũng, PT. Huyền).
Trong thời gian 5 năm đầu, Phòng Tin học có chức năng/nhiệm vụ hỗ trợ các phòng chuyên môn của Viện trong việc lắp đặt máy tính, máy in, cài đặt hệ điều hành, các ứng dụng, hỗ trợ việc sử dụng phần mềm (các máy tính đặt riêng rẽ, độc lập tại các phòng chuyên môn của Viện). Tham gia các đề tài, nhiệm vụ do Petrovietnam/VPI giao, các hợp đồng khoa học/dịch vụ với các đơn vị sản xuất như Liên doanh Việt - Nga (VSP), Công ty thăm dò khai thác Dầu khí (PVEP), Công ty Đầu tư phát triển Dầu khí (PIDC), Viện Khoa học Việt Nam... với vai trò chuyên viên địa chất, địa vật lý, khoan, công nghệ thông tin.
![]() |
Phần mềm minh giải địa chất, địa vật lý tại hệ thống workstation. |
Cũng trong thời gian này, Petrovietnam/VPI giao cho Phòng Tin học nhiệm vụ đầu mối thực hiện dự án hợp tác “Đánh giá tiềm năng dầu khí Bể Sông Hồng” giữa Cục Địa chất Đan Mạch & Greenland (GEUS) và Cơ quan Phát triển Quốc tế Đan Mạch (DANIDA) với Viện Dầu khí Việt Nam, trực tiếp tiếp nhận, quản lý, vận hành hệ thống Trạm làm việc (workstation) gồm: 2 máy chủ SUN (cài đặt phần mềm minh giải địa chất/địa vật lý, mô hình hóa bể trầm tích, vẽ bản đồ của Landmark Graphics/Halliburton) cùng các thiết bị phụ trợ: máy đọc băng từ 9 rãnh, 8mm, DLT, máy in khổ lớn, máy quét...
Ban Chủ nhiệm dự án cử một số nhân sự của Phòng Tin học và các phòng chuyên môn khác tham dự các khóa đào tạo về sử dụng/hỗ trợ kỹ thuật hệ điều hành và các phần mềm của Landmark tại Đan Mạch, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Úc. Trong thời gian này, các chuyên viên của VPI và GEUS đã thực hiện và hoàn thành tốt các công việc sau:
- Dự án hợp tác: Đánh giá tiềm năng dầu khí bể trầm tích Sông Hồng (1996-2000), Nghiên cứu bể trầm tích Phú Khánh (2001-2004), Nghiên cứu bể trầm tích Malay - Thổ Chu (2005-2009).
![]() |
Khảo sát thực địa |
![]() |
Báo cáo kết quả nghiên cứu “Đánh giá tiềm năng dầu khí bể Sông Hồng” |
- Tham dự, trình bày các kết quả nghiên cứu, báo cáo khoa học tại một số hội nghị khoa học trong nước và quốc tế.
![]() |
Tham dự Hội nghị khoa học |
Các chuyên viên của Phòng Tin học và một số phòng chuyên môn khác tham gia dự án nắm vững kỹ năng quản lý, vận hành, sử dụng phần mềm minh giải địa chất, địa vật lý của Landmark Graphics trên hệ thống workstation. Do đó, khi Halliburton/Landmark Graphics triển khai cung cấp phần mềm trên cho các nhà thầu dầu khí nước ngoài/liên doanh hoạt động ở TP Hồ Chí Minh và Vũng Tàu như BP-Amoco, Unocal, Petronas, ConocoPhillips, JVPC, VSP, PVEP, Côn Sơn JOC..., cuối năm 1999, đại diện Landmark tại Kuala Lumpur thông qua Ban điều hành dự án Đan Mạch - Việt Nam, nắm được tình hình sử dụng phần mềm của hãng, khả năng nhân lực dự án, đã sang Viện Dầu khí gặp gỡ lãnh đạo Viện và đề nghị hợp tác, cụ thể là nhờ Viện giúp Landmark thuê văn phòng tại TP Hồ Chí Minh và cung cấp nhân lực ở vị trí Hỗ trợ kỹ thuật và Tư vấn (Technical Support, Consultant). Landmark đề nghị VPI cử 4 người (anh Giang, Tùng, Sơn, Nam; sau này thêm anh Long, An, Đức, Cảnh, Nghị). Nhóm kỹ thuật này 2 người một tốp, trong 2 tháng, lần lượt thay nhau làm việc tại TP Hồ Chí Minh. Sau thỏa thuận này, Landmark đã mở văn phòng tại TP Hồ Chí Minh. Anh em kỹ thuật của Việt Nam đã rất nỗ lực (nâng cao trình độ tiếng Anh, kiến thức chuyên môn, sử dụng phần mềm...), thực hiện tốt công việc của mình, được khách hàng và Landmark đánh giá cao.
Chuyên viên Phòng Tin học cùng với Viện Công nghệ Thông tin/Viện Khoa học Việt Nam thực hiện các hạng mục công việc của Hợp đồng “Thiết lập mạng máy tính nội bộ (LAN) và kết nối internet tại Viện Dầu khí (trụ sở chính Hà Nội và chi nhánh TP Hồ Chí Minh), bao gồm lắp đặt/kết nối thiết bị mạng, đào tạo người sử dụng, quản lý hệ thống, hỗ trợ kỹ thuật, đảm bảo vận hành thông suốt, an toàn, an ninh, bảo mật dữ liệu.
Thực hiện các đề tài, hợp đồng dịch vụ: “Chính xác hóa cấu trúc Miền võng Hà Nội”, “Minh giải địa chấn 3D lô 17 bể Cửu Long”, “Minh giải địa chấn 3D cấu tạo Vải Thiều” và một số đề tài/hợp đồng khác.
Nhìn chung, các kỹ sư của Phòng Tin học và các phòng chuyên môn tham gia dự án đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và trưởng thành. Về học vị, một số anh chị bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ (anh NA. Đức, PT. Giang, NT. Huyền, NT. Dậu), luận án Thạc sĩ (chị TC. Giang, ĐV. Hiếu, NT. Hiếu, HA. Tuấn)... Về vị trí công tác, anh Tùng là Phó Viện Trưởng VPI; anh Long: Phó Trưởng Ban TKTD, anh Đức: Trưởng phòng Trữ lượng, Ban TKTD/Petrovietnam; anh Cảnh: kỹ sư chính Chevron; anh Giang, Nghị: kỹ sư chính Petronas; anh Nam: chuyên gia Halliburton; anh An: Phó Trưởng ban Tiêu chuẩn PVEP, anh Cường, chị Hạnh: Ban Đào tạo & Phát triển Nhân lực/Petrovietnam, anh Tài: Phó giám đốc Vietgazprom (đã nghỉ hưu), chị Thư: chuyên viên PVEP...
Trong giai đoạn 10 năm, từ khi thành lập đến khi phát triển thành Ban Công nghệ Thông tin, các cán bộ của Phòng Tin học đã nỗ lực làm việc, nâng cao năng lực nghiên cứu, thực hiện tốt nhiệm vụ, có thể triển khai hiệu quả các nghiên cứu/dịch vụ khoa học công nghệ mang tính tổng hợp, kết hợp kinh nghiệm của cán bộ khoa học kỹ thuật với việc ứng dụng công nghệ cao, mang lại hiệu quả kinh tế cũng như uy tín cho VPI/Petrovietnam.
Dương Hùng Sơn
Mã tác phẩm: 29-KS-DHS-0001