Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ tăng cường nhập dầu Nga trước lệnh cấm của EU

16:36 | 12/06/2022

1,732 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo Nikkei, Trung Quốc và Ấn Độ đang tiếp tục gia tăng nhập khẩu dầu Nga khi thương mại năng lượng toàn cầu được định hình lại một cách mạnh mẽ.

Tuy nhiên, khả năng hấp thụ của châu Á có nhiều hơn hay không sẽ được kiểm chứng khi Liên minh châu Âu (EU) cắt giảm nhập khẩu dầu từ Nga nhằm đáp trả cuộc chiến tại Ukraine.

Nhập khẩu dầu Nga của Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ tăng mạnh

Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ tăng cường nhập dầu Nga trước lệnh cấm của EU - 1
Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ tranh thủ nhập dầu Nga trước lệnh cấm của EU (Ảnh: AP và Reuters).

Phân tích dữ liệu từ Refinitiv, Nikkei cho biết, trong thời gian kể từ khi chiến tranh nổ ra vào ngày 24/2 đến ngày 2/6, tổng cộng 290 tàu chở dầu rời Nga tới châu Á, tăng mạnh so với con số 190 cùng kỳ năm ngoái.

Trong đó, Ấn Độ, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ ghi nhận mức tăng lớn nhất với mức tăng lần lượt là 8 lần, 70%, 54%.

Hãng nghiên cứu hàng hóa Kpler cũng cho biết, trong tháng 5, Trung Quốc nhập khẩu 1,09 thùng dầu/ngày từ Nga, tăng đáng kể so với mức 910.000 thùng/ngày trong tháng 4. Trong khi đó, Ấn Độ nhập 740.000 thùng/ngày, tăng mạnh so với mức 284.000 thùng/ngày. Trước đó, trong năm 2021, trung bình Trung Quốc nhập từ Nga 725.000 thùng/ngày, còn Ấn Độ chỉ 36.000 thùng/ngày.

Nhập khẩu của châu Á gia tăng cho thấy dầu Nga đang được bán với mức giá thấp hơn so với các loại dầu khác như dầu Brent. Thực tế, mặc dù giá dầu tăng khắp nơi kể từ sau chiến sự, nhưng giá dầu Urals của Nga vẫn bán ở mức 95 USD/thùng, tương đương mức giá tại thời điểm 24/2.

"Mặc dù giá dầu thô của Nga bị giảm phần nào nhưng các chuyến hàng dầu thô của Nga vẫn không bị ảnh hưởng đáng kể", ông Tomomichi Akuta, nhà kinh tế cấp cao của Mitsubishi UFJ Research & Consulting nói và cho rằng Nga vẫn tiếp tục có được nguồn thu từ dầu mỏ.

Ông Giovanni Staunovo, nhà phân tích hàng hóa tại UBS, dự đoán Ấn Độ, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tiếp tục mua dầu thô của Nga do giá giảm mạnh.

Tuy nhiên, ông Tatsufumi Okoshi, chuyên gia kinh tế cấp cao tại Nomura Securities, bày tỏ nghi ngờ Trung Quốc và Ấn Độ có thể tăng cao hơn nữa lượng mua dầu thô so với hiện tại.

"Cả Ấn Độ và Trung Quốc đều có hợp đồng mua dầu dài hạn với các nhà cung cấp ở Trung Đông", ông Okoshi nói với Nikkei Asia. Theo ông, họ chỉ tranh thủ nhập dầu Nga giá rẻ giao ngay khi thuận tiện. "Tôi không nghĩ họ sẽ chuyển từ Trung Đông sang mua lượng lớn dầu của Nga", ông nói.

Trong khi đó, cùng với việc hạn chế mua dầu Nga, EU cũng đang hướng tới việc làm cho những người mua thay thế gặp khó hơn bằng việc cấm các công ty bảo hiểm châu Âu bảo hiểm cho các tàu chở dầu của Nga.

Ông Umud Shokri, nhà phân tích chính sách đối ngoại tại Washington cho rằng: "Việc Nga chuyển hướng khí đốt từ châu Âu đến châu Á đòi hỏi phải xây dựng các đường ống cực dài hoặc cảng chuyên dụng như trên đảo Sakhalin của Nga".

Theo ông, bán dầu đến châu Á thì phải vận chuyển bằng tàu biển, nhưng do các lệnh trừng phạt nên các công ty bảo hiểm đang từ chối bảo hiểm cho các tàu chở dầu của Nga. Các ngân hàng cũng từ chối bảo lãnh trong thời gian dầu đang được vận chuyển. Do đó, Ấn Độ đang yêu cầu Nga giảm giá dầu để bù đắp các chi phí rủi ro và phụ trội.

Về dài hạn, Trung Đông sẵn sàng bơm nhiều dầu cho EU

Mặc dù ảnh hưởng của các lệnh cấm vận dầu của EU phải mất vài tháng nữa mới trở nên rõ ràng hơn, nhưng cuộc chiến tại Ukraine đã gây ra một số thay đổi trong vấn đề nhập khẩu của EU và tạo ra sự khác biệt giữa các thành viên trong khối.

Nhập khẩu dầu của EU từ Tây Phi, Mỹ và Trung Đông, đặc biệt là từ Iraq và Saudi Arabia, đã tăng mạnh. Dầu Urals của Nga vẫn đến châu Âu nhưng thường hướng nhiều về Địa Trung Hải hơn, trong đó chủ yếu là Italy.

Do nhiều nhà máy lọc dầu ở châu Âu được thiết kế để chế biến dầu thô Urals nên các sản phẩm thay thế tương tự loại dầu này sẽ đến từ Saudi Arabia và Iraq. Điều đó có thể giúp mở rộng thị trường dầu thô Trung Đông, trong khi các nhà lọc dầu châu Á, những khách hàng lớn nhất của họ, lại chuyển hướng sử dụng nhiều dầu thô của Nga hơn.

Nói với Nikkei, ông Shokri cho rằng: "Trong ngắn hạn, các nhà sản xuất dầu Trung Đông như Saudi Arabia, UAE và Iraq không muốn làm bất ổn mối quan hệ giữa OPEC và Nga, nhưng về trung và dài hạn, họ sẽ sẵn sàng bơm nhiều dầu hơn cho châu Âu".

Sultan Al Jaber - CEO công ty năng lượng nhà nước ADNOC của UAE - nói với Nikkei rằng: "Chúng tôi đang tăng công suất sản xuất dầu thô lên 5 triệu thùng/ngày vào hoặc trước năm 2030 và đang tính đẩy nó lên cao hơn".

Trong khi đó, nhập khẩu dầu của Trung Quốc từ các nguồn khác lại sụt giảm khi nước này tăng cường mua dầu từ Nga. Cụ thể, theo Kpler, các chuyến hàng từ Tây Phi tới Trung Quốc trong tháng 4 chỉ còn trung bình 429.000 thùng/ngày, mức thấp nhất trong hơn 5 năm. Trong khi đó, năm 2021, Trung Quốc nhập từ Tây Phi 1,15 triệu thùng.

Trong vài tháng gần đây, các nhà sản xuất Tây Phi đã phải vật lộn để tăng sản lượng. Tuy nhiên, theo ông Dmitry Marinchenko, giám đốc cấp cao tại Fitch Ratings, họ đã hoạt động hết công suất. "Họ cần phải đầu tư và khoan nhiều hơn", ông nói và cho biết hai quốc gia duy nhất có khả năng dự phòng nguyên liệu là Saudi Arabia và UAE.

Ông Marinchenko cho rằng, mặc dù, Trung Quốc và Ấn Độ có thể nhập hầu hết dầu thô của Nga song họ vẫn không thể hấp thụ hết được lượng dầu mà Nga xuất khẩu sang châu Âu hiện nay.

"2-3 triệu thùng dầu mỗi ngày của Nga có thể biến mất trên thị trường vào cuối năm nay và nó sẽ không đến đâu", ông nói là lý giải: "Ngày càng nhiều khách hàng tẩy chay dầu Nga và lệnh trừng phạt của EU sẽ dẫn đến tắc nghẽn trong vận chuyển và công suất sản xuất của Nga bị sụt giảm do không tiếp cận được với công nghệ phương Tây.

Theo Dân trí

Tổng thống Putin công bố mức bồi thường cho binh sĩ tử trận tại Ukraine
Nga nói đã tìm ra cách "lách" lệnh cấm trả nợ bằng đồng USD của Mỹ
Doanh thu từ dầu của Nga bắt đầu giảm khi giá dầu Urals chiết khấu mạnh
Bất chấp lệnh cấm vận, dầu mỏ của Nga vẫn tìm được khách hàng lớn
Tổng thống Putin tiết lộ vì sao giá lương thực và phân bón tăng cao?
Thủ tướng Hungary: Cấm vận dầu mỏ Nga sẽ hủy hoại nền kinh tế châu Âu
Lệnh cấm khắc nghiệt của EU có thực sự bóp nghẹt kinh tế Nga?

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
AVPL/SJC HCM 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
AVPL/SJC ĐN 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,330 ▲400K 11,610 ▲350K
Nguyên liệu 999 - HN 11,320 ▲400K 11,600 ▲350K
Cập nhật: 21/04/2025 10:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.000 ▲2500K 115.600 ▲2100K
TPHCM - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Hà Nội - PNJ 112.000 ▲2500K 115.600 ▲2100K
Hà Nội - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Đà Nẵng - PNJ 112.000 ▲2500K 115.600 ▲2100K
Đà Nẵng - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Miền Tây - PNJ 112.000 ▲2500K 115.600 ▲2100K
Miền Tây - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.000 ▲2500K 115.600 ▲2100K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.000 ▲2500K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.000 ▲2500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.000 ▲2500K 115.600 ▲2100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.000 ▲2500K 115.600 ▲2100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.000 ▲2500K 114.500 ▲2500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.890 ▲2500K 114.390 ▲2500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.180 ▲2480K 113.680 ▲2480K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.960 ▲2480K 113.460 ▲2480K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.530 ▲1880K 86.030 ▲1880K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.630 ▲1460K 67.130 ▲1460K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.280 ▲1040K 47.780 ▲1040K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.480 ▲2290K 104.980 ▲2290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.500 ▲1530K 70.000 ▲1530K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.080 ▲1630K 74.580 ▲1630K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.510 ▲1700K 78.010 ▲1700K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.590 ▲940K 43.090 ▲940K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.440 ▲830K 37.940 ▲830K
Cập nhật: 21/04/2025 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,120 ▲300K 11,690 ▲350K
Trang sức 99.9 11,110 ▲300K 11,680 ▲350K
NL 99.99 11,120 ▲300K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,120 ▲300K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,350 ▲300K 11,700 ▲350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,350 ▲300K 11,700 ▲350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,350 ▲300K 11,700 ▲350K
Miếng SJC Thái Bình 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Miếng SJC Nghệ An 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Miếng SJC Hà Nội 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Cập nhật: 21/04/2025 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16030 16296 16882
CAD 18229 18505 19122
CHF 31368 31747 32403
CNY 0 3358 3600
EUR 29156 29426 30465
GBP 33819 34208 35143
HKD 0 3206 3408
JPY 177 181 187
KRW 0 0 18
NZD 0 15161 15759
SGD 19307 19586 20115
THB 697 760 813
USD (1,2) 25635 0 0
USD (5,10,20) 25673 0 0
USD (50,100) 25701 25735 26080
Cập nhật: 21/04/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,720 25,720 26,080
USD(1-2-5) 24,691 - -
USD(10-20) 24,691 - -
GBP 34,183 34,276 35,184
HKD 3,278 3,288 3,388
CHF 31,589 31,687 32,559
JPY 180.4 180.72 188.79
THB 745.38 754.59 807.14
AUD 16,333 16,392 16,841
CAD 18,508 18,568 19,067
SGD 19,527 19,587 20,198
SEK - 2,665 2,760
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,435 2,522
CNY - 3,516 3,612
RUB - - -
NZD 15,140 15,281 15,720
KRW 16.97 17.7 19
EUR 29,352 29,376 30,627
TWD 719.72 - 871.33
MYR 5,511.49 - 6,217.45
SAR - 6,786.42 7,144.03
KWD - 82,227 87,434
XAU - - -
Cập nhật: 21/04/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,750 25,770 26,110
EUR 29,195 29,312 30,404
GBP 34,010 34,147 35,119
HKD 3,277 3,290 3,396
CHF 31,399 31,525 32,441
JPY 179.46 18,018 187.72
AUD 16,241 16,306 16,834
SGD 19,515 19,593 20,127
THB 761 764 798
CAD 18,438 18,512 19,030
NZD 15,212 15,721
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 21/04/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25710 25710 26070
AUD 16209 16309 16872
CAD 18403 18503 19054
CHF 31630 31660 32550
CNY 0 3516.2 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29352 29452 30325
GBP 34125 34175 35278
HKD 0 3320 0
JPY 181.06 181.56 188.07
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15262 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19465 19595 20326
THB 0 725.8 0
TWD 0 770 0
XAU 11500000 11500000 11900000
XBJ 11200000 11200000 11800000
Cập nhật: 21/04/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,740 25,790 26,110
USD20 25,740 25,790 26,110
USD1 25,740 25,790 26,110
AUD 16,262 16,412 17,480
EUR 29,424 29,574 30,760
CAD 18,354 18,454 19,773
SGD 19,539 19,689 20,160
JPY 180.67 182.17 186.86
GBP 34,187 34,337 35,239
XAU 11,498,000 0 11,702,000
CNY 0 3,399 0
THB 0 762 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 21/04/2025 10:00